Popular Posts

Monday, March 28, 2016

Little Saigon - Vietmerica

 


Little Saigon - Vietmerica
Tác Giả: Chú Chín Cali
Bài số 3779-17-30279vb8032016

Tác giả sinh trưởng ở miền Nam sông nước, nguyên là giảng viên đại học ở Việt Nam, sĩ quan QĐVNCH, công chức ở Mỹ và là chuyên gia Mỹ làm việc ở ngoại quốc. Ông đã về hưu và chọn sinh sống trong khu Little Saigon. Sau đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ 6 của tác giả.
* * *

blank
Tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ.

Hằng ngày một tay cầm bọc nylon, một tay dẫn con chó, Chú đi bộ một vòng trong xóm để tập thể thao. Về gần đến nhà, mùi cá khô tộ nhà ai làm chú thấy đói. Mấy con chó hàng xóm nghe mùi chó lạ, ùa ra sân sủa rang. Có tiếng đàn bà chu chóe vọng ra:

“KiKi, shut up ”.

Chú kéo con Molly đang ghì giây cổ, cự nự với mấy con chó sủa bậy rồi rảo bước về nhà. Phía sau còn văng vẳng tiếng chửi bới:

“Đi vô không? Tao đập chết mẹ bây giờ!”

Vừa bước vào nhà, mùi cơm gạo Nàng Hương Chợ Đào thơm phưng phức xông ra từ nhà bếp. Chú nói vọng vào nhà:

“Chà! Gạo thơm quá nhá. Hôm nay Bà cho tui ăn gì đây?

“Canh chua cá kho tộ, món ruột của ông đó! “

Thì ra mùi cá kho tộ thoang thoảng lúc trước là từ nhà chú mà ra. Khu Condo Chú ở toàn là người Việt, nằm ở trung tâm Little Saigon ở quận Cam, CA mà Chú là một thành viên tiêu biểu.

“Little Saigon” ngày nay không còn là tên khu thương mại Việt Nam nữa, mà để ám chỉ cộng đồng người Việt sống trong khu trù phú nầy. Little Saigon ở quận Cam lớn nhất so với các Little Saigon khác nên được xem như là “Thủ phủ”, là trung tâm của những sinh hoạt xã hội, kinh tế, văn hóa và chánh trị của người Việt lưu vong ở Mỹ.

Có những Little Saigon tuy nhỏ hơn nhưng không kém phần quan trọng như ở San Jose, Houston, và Mel Bourne (Australia). Ngoài ra có nhiều Little Saigon nhỏ khác như ở San Gabriel Valley, Sacramento, San Francisco, Oakland, Atlanta, Denver, Oklahoma City, New Orleans, Dallas–Fort Worth, Vỉginia, Orlando, và Seattle. Ở một số tiểu bang khác, Little Saigon nằm chung với các trung tâm thương mại người Hoa (Chinese Town)
*

blank
Bảng chỉ đường trên xa lộ.

Nhớ lại ngày xưa, trước năm 1975, khu Little Sai gòn ở quận Cam là một vùng đất canh nông hoang vắng, với các ruộng dâu, đậu nành, củ cải đường, và trại nuôi cá gold fish. Sau 1975, những đợt di dân ồ ạt của người Việt tị nạn đổ về quận Cam đã biến đổi vùng nầy thành một khu thương mại phồn thịnh.

Sống trong Little Saigon lâu năm, cư dân ở đây không còn cái cảm giác là mình sống trong xứ Mỹ nửa. Họ đã hội nhập vào một xã hội mới, không phải Mỹ, cũng không phải Việt Nam, cái gọi là “xã hội Little Saigon”.

Trong tương lai không chừng chúng ta sẽ có một nền văn hóa mới, “văn hóa Little Saigon”.

Sống chung chạ sinh ra bực mình, nhất là sống chung với người Việt Nam. Người Việt mình cứ chửi lẫn nhau là “kỳ cục”. Nhưng không sao, mình cứ đóng cửa lại mà “kỳ cục” với nhau! Có biết bao nhiêu người Việt cô đơn từ những thành phố xa xôi, thiếu người Việt, phải lặn lội về đây vì thương nhớ cái “kỳ cục” dễ thương nầy!!

Thăm Little Saigòn mà không đi ăn hàng để thưởng thức cái hương vị quê hương, và để sống lại cái không khí hàng quán ồn ào ở Việt Nam là điều thiếu sót.

Vào các quán ăn đông khách, vừa mở cửa ra là tiếng ồn ào bị dồn nén trong phòng ùa ra cửa. Bao nhiêu cái đầu trong tiệm đều ngửng lên nhìn. Người Việt mình rất thích “nghinh”, dùng cách chạm mắt (eye contact) để dò xét nhau, xem con mẹ hoặc thằng cha nầy trông thấy ghét hoặc dễ thương. Trong tiệm thì bàn ghế kéo rồn rột trên sàn, muỗng nĩa khua lách cách leng keng, mạnh ai nấy nói nấy cười tự nhiên như ở bến xe đò lục tỉnh. Trên bàn thì tùm lum các xương xẩu, giấy napkin, chỉ thiếu món xả rác xuống sàn, các quán xá bình dân ở Little Saigon giống y chang như quán mì “chú Xè” ở Chợ lớn!

Người Mỹ bụng yếu nên ăn uống mủm mỉm, không dám hở mồm, lỡ gió vào bị đau bụng. Còn người Việt mình bao tử tốt, tha hồ há mồm, mở miệng, nhay nhóc nhách cho khoái khẩu! Ăn bánh xèo mà không dùng tay, cuốn với cải bẹ xanh, chấm vào nước mắm pha, há mồm to mà cắn thì làm sao ăn cho được? Không lẽ dùng muỗng nĩa để ăn bánh xèo cho nó có vẻ văn minh?

Đi dạo chơi trong khu Little Saigon, nhà cửa người Việt rất dể phân biệt nhờ có rào cổng kín mít. Chủ nhà sợ hàng xóm qua chơi cầm nhầm vài món như ở Việt Nam! Mấy cái cây “mắc dịch” trồng mấy chục năm để quét lá, được thay thế bằng cây chanh, cây ổi, bụi chuối, dàn bầu, vừa có trái ăn, vừa có tính Việt Nam, trông vui mắt

Các khu thương mại Việt Nam buôn bán sầm uất, tấp nập. Xe cộ toàn loại đắt tiền, bóng láng, nhìn qua nhìn lại tài xế toàn là đầu đen mũi tẹt. Cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới khắp đường phố. Các bản hiệu bằng tiếng Việt dẫy đầy. Chùa chiền nhan nhản. Đi nhà thờ Cha làm lễ bằng tiếng Viêt. Tết về hội hè tấp nập, chợ Tết tưng bừng, múa lân đốt pháo, hàng hoa, hàng bánh mứt, khu ẩm thực, khu văn nghệ, vui không thua gì Tết ở Việt Nam. Hàng năm ước tính có khoảng 300,000-400,000 người Việt khắp nơi tụ về Litle Saigon ở quận Cam ăn tết, nên chợ Tết đã trở thành một truyền thống.

Hãy về đây với Little Saigon, bạn sẽ thoải mái sống như một người Việt Nam, trong xứ Việt Nam, với phong tục tập quán Việt Nam. Bạn sẽ cảm nhận được cái không khí quê hương, tuy rằng đang sống ở Mỹ. Châm ngôn Mỹ có câu “Birds of a feather flock together”, nhưng châm ngôn nầy nên áp dụng cho người Việt Nam thì đúng hơn vì “Người Việt da vàng, tụ chung một đàn!”, và họ đã chọn Little Saigon làm nơi để tụ tập về từ khắp nơi trên thế giới.

Một trong những điều bận tâm của người Việt hải ngoạilà làm sao bảo toàn tiếng Việt vì theo câu châm ngôn: “Tiếng Việt còn, người Việt còn.” Little Saigon đã một là giải pháp hữu hiệu nhất cho nỗi ưu tư nầy, chỉ cần đảo ngược câu châm ngôn nầy như sau: “Người Việt còn, tiếng Việt còn”. Người Việt bảo đảm sẽ còn mãi mãi ở Little Saigon, tiếng Việt sẽ còn mãi mãi ở xứ Mỹ!

Thỉnh thoảng có người Việt da vàng mũi tẹt xổ tiếng Mỹ nghe nó sao kì kì, khó chịu. Họ không phải là dân Little Saigon. Dân Little Saigon không thèm nói tiếng Mỹ. Nhiều người ngược lại có biết tiếng Mỹ đâu mà nói! Mấy chục năm ở Mỹ chỉ cần vài chữ như “he lô”, “hao e du ”, rồi vội vã “guốc bay” hay” “thanh kiu”. Chừng ấy đã đủ rồi, ai muốn nói nhiều thì nói với cháu nội của tui nè!

Thỉnh thoảng có những người ngoại quốc, mang máy chụp hình đi lơ ngơ trong khu Phước Lộc Thọ. Người mình nhìn họ với cặp mắt xa lạ. Họ là những người Mỹ thăm viếng Little Saigon. Vì nơi đây đã Việt Hóa hoàn toàn nên họ trở thành người ngoại quốc trong chính quê hương của họ!

Little Saigon là thiên đàng của những ai có tâm hồn ăn uống. Vào nhà hàng tha hồ mà chọn món Bắc Trung Nam, cao lương mỹ vị hoặc đặc sản ba miền. Trong chợ thì đầy ấp các nguyên liệu nấu ăn và làm mồi nhậu. Đâu cần phải đi về Việt Nam mới ăn được trái cây nhiệt đới như Mít, Chôm Chôm, Sầu Riêng, Măng Cụt...! Nói chung, muốn gì có nấy, giá rẻ bèo!

Ở đây các bà tề gia nội trợ mặc tình trổ tài nấu nướng, tha hồ kho mắm, nướng khô, nấu bún rêu, kho tộ, xào mắm ruốc … thổi mùi ra ngoài sân cho cả xóm cùng….. ngửi, còn khen…… thơm!!!
*

blank
Chào mừng tới Little Saigon.

Sau một quá trình phôi thai lâu dài, Little Saigon chính thức chào đời năm 1988, khi Governor George Deukmejian chánh thức xác định ranh giới 3 dậm vuông cho Litte Saigon nằm giữa bốn con đường, Westminster Ave. (bắc), Bolsa Ave. (nam), Magnolia St. (tây), và Euclid St.(đông). Một bảng chỉ đường được dựng lên trên xa lộ 22. Little Saigon được chánh thức chấp nhận là một thực thể.

Và bắt đầu từ đấy, Little Saigon là nơi thờ phượng, tưởng niệm của vô số oan hồn các anh hùng tử sĩ và các nạn nhân đã tử vong trong biến cố 1975, bị phản bội, ruồng bỏ ở chính quê hương mình. Đây là nơi an nghỉ cho những linh hồn của hằng trăm ngàn thuyền nhân đã vùi thân nơi đáy bể vì lý tưởng tự do, của hàng vạn sinh linh đã bỏ xứ ra đi tìm sự sống nhưng không bao giờ tìm thấy, thân xác rã rời trong rừng sâu núi thẫm.

Và đây là nơi hồn thiên của một dân tộc lưu vong, tưởng đã mai một rồi theo vận nước, đã tụ về một khối. Little Saigon giờ đây là một thực thể có linh hồn, được nung đúc, nuôi dưỡng bởi cộng đồng người Việt lưu vong.

Litle Saigon ở quận Cam đang lớn mạnh và lan rộng như vết dầu loang, từ thành phố Westminster và Garden Grove, lan dần đến các thành phố lân cận như Anheim, Santa Ana, Huntington Beach, Irvine, Stanton…

Nhưng tất cả diễn biến đã xảy ra chỉ là giai đoạn đầu trong chu kỳ lớn.

Little Saigon không ngừng biến chuyển, vẫn âm thầm thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của nó. Một ngày rất gần, con nhộng sẽ hóa thân thành con bướm vàng huyền thoại, cất cao đôi cánh thiên thần mang về cho quê hương những gì mà hằng triệu con dân nước Việt đang ước vọng mong chờ. Thành Phố Sài Gòn yêu dấu, đang oằn oại, tan tác, với căn bịnh ung thư, sẽ khôi phục lại cương vị Hòn Ngọc Viễn Đông, mà ngày xưa đã một thời huy hoàng sáng chói!

Little Saigon là biểu tượng tình đồng bào, tinh thần bất khuất và sức sống mãnh liệt của người Việt Nam lưu vong. Little Saigon là Linh hồn của Việt Nam hải ngoại.

Đã là một người Việt tị nạn, không bắt buộc phải là cư dân của Little Saigon, mỗi người trong chúng ta đã là một viên gạch, một thành viên của biểu tượng Little Saigon.

Người Mỹ hãnh diện tổ tiên mình là những người tiền phong, vì lý tưởng tự do, đã vượt trùng dương đến đây với đôi bàn tay trắng và một ý chí sắt đá kiên cường, đã khắc phục mọi khó khăn lúc ban đầu để tạo ra xứ Mỹ văn minh hùng mạnh nhứt thế giới. Người Việt tị nạn chúng ta đã bước theo những vết chân lịch sử của người xưa, đã tạo nên Little Saigon rạng rỡ cho người Việt nam,

Người Mỹ gốc Việt chúng ta xứng đáng là một công dân Mỹ, theo tinh thần lập quốc của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng ta đang sống trong quê hương “Vietmerica” do chúng ta tạo ra, quê hương bé nhỏ của chúng ta trong Hiệp Chủng Quốc Mỹ bao la vĩ đại.

Vietmerica là quê hương thứ hai của chúng ta. Việt Nam là nơi chúng ta chôn nhau cắt rốn. Vietmerica là nơi chúng ta sẽ gởi gấm xác thân nầy.
Chú Chín Cali


__._,_.___


Posted by: <vneagle_1

Saturday, March 26, 2016

Ảo Ảnh Của Tâm


Ảo Ảnh Của Tâm

Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngục là thiên đàng.
Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngục là địa ngục.
Cùng một thứ mà kẻ thì gọi là thiên đàng, người thì gọi là địa ngục. Vậy thì cung trời và địa ngục đều giả, không thực.
Cũng lại như thế. Một kẻ ăn chơi đàng điếm mà nhốt nó vào tu viện thì đúng là nhốt nó vào địa ngục. Nhưng sau một thời gian thấy quen, rồi yêu thích rồi cuối cùng nhận ra đây mới chính là thiên đàng.
Một vị tu hành đạo đức bị đưa vào chốn ăn chơi đàng điếm thì đúng là nhốt ông ta vào địa ngục. Nhưng sau một thời gian thấy quen, rồi yêu thích rồi cuối cùng nhận ra đây mới chính là thiên đàng.
Chính vì thế mà trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã giảng dạy cho Bồ Tát Thanh Tịnh Tuệ, “Này thiện nam tử: Trí tuệ, ngu si đều là Bát Nhã. Địa Ngục, Cung Trời đều là Tịnh Độ. Chúng Sinh, Quốc Độ đều đồng một pháp tính, Vô Minh, Chân Như không khác cảnh giới...”
Khi Tâm ở thể Chân Như tức nhìn vạn vật bằng Phật nhãn thỉ Thiên Đàng hay Địa Ngục - Chúng sinh hay Quốc Độ (đất Phật)…nói rộng ra vạn vật đều đồng nhất thể. Còn khi Tâm động và nhìn sự vật bắng “tục nhãn” thì thấy có sai biệt, tức thấy địa ngục, cung trời, chúng sinh quốc độ. Từ sai biệt này mà nảy ra Đúng-Sai, Thương-Ghét.
Bạn ơi,
Con người thường nhìn sự vật qua lăng kính của cảm xúc. Khi yêu thích thì gán cho nhãn hiệu thiên đàng, khi chán ghét thì gán cho nhãn hiệu địa ngục.
Muốn sống hạnh phúc thì cùng lúc phải chặt đứt hai vọng tưởng điên đảo về cung trời và địa ngục. Câu chuyện sau đây là bản minh họa rõ nét về những vọng tưởng điên đảo của Tâm mình:

"Đêm ấy là đêm rằm. Mặt trăng chiếu sáng lung linh cả một vùng. Tại nơi giang đầu, một đôi tình nhân yêu nhau lần đầu. Giữa đêm trăng sáng, họ đưa nhau ra đây tình tự, thề non hẹn biển. Còn đêm nào tình tứ hơn đêm nay? Người con trai khẽ nắm lấy bàn tay người con gái, âu yếm nói:
-Em yêu ơi ! Hãy nhìn ánh trăng kia, ánh trăng lung linh, mờ ảo. Đêm nay là đêm diễm lệ. Mảnh trăng đẹp tuyệt trần kia là nhân chứng cho mối tình bất diệt của chúng ta. Trăng đẹp như tình ta đẹp. Trăng xinh như mộng ta xinh !
Nhưng tại nơi giang hạ, ngay lúc đó, một đôi tình nhân vì tình đời ngang trái, ngày mai họ phải vĩnh viễn xa nhau. Họ ra đây để từ tạ nhau lần cuối. Người con trai đau khổ nắm lấy tay người con gái, nói:
-Em yêu ơi! Trăng đêm nay sao úa màu, tàn tạ? Dường như trăng đang lịm chết để chia xẻ với đêm chia ly vĩnh biệt của đôi ta. Trăng ơi, sao trăng ảm đạm thế? Trăng vương màu tang như cuộc đời lạnh giá, vô vị của anh từ đây phải vĩnh viễn xa em !
Cũng ngay lúc ấy, một bác nông phu, nhà ở gần mé sông, bước ra ngoài sân. Bác ngửa mặt lên trời, ngắm nhìn mặt trăng một hồi rồi chép miệng, nói:
-Chà, cái con trăng quầng sáng có pha màu hồng như thế kia thì năm nay coi chừng mất mùa đa!
            Cũng ngay lúc ấy, tại một thành phố tương đối thanh bình, nhân mùa Trung Thu, các em bé vui vẻ rước đèn đi chơi và cùng nhau ca hát:
Ánh trăng trắng ngà
Có cây đa to.
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ.
Cuội ơi ta nói Cuội nghe
bằng cả tâm hồn ngây thơ, trong trắng. Các em chẳng thắc mắc gì về Chị Hằng, Chú Cuội ngoại trừ lồng đèn và bánh kẹo.
Cũng ngay vào lúc ấy, tại một đài thiên văn, một khoa học gia đang dùng viễn vọng kính để quan sát mặt trăng. Ông chẳng hề có ý nghĩ mảnh trăng diễm lệ như đôi tình nhân ở đầu sông. Ông cũng chẳng thấy trăng úa màu như đôi tình nhân ở cuối sông. Ông cũng chẳng thấy dấu hiệu nào chứng tỏ năm nay sẽ mất mùa như bác nông phu. Dĩ nhiên già rồi, ông đâu còn đi rước đèn Trung Thu nữa cho nên đâu có quan tâm tới Chị Hằng, Chú Cuội. Ông đang  lặng lẽ quan sát quỹ đạo của mặt trăng để tính đường bay chính xác cho chiếc phi thuyền dự tính phóng lên vào cuối năm nay. Mặt trăng đối với ông chỉ là một vệ tinh bay quanh trái đất và có thể có vị trí chiến lược trong cuộc Chiến Tranh Tinh Đẩu (Star Wars).
Vậy thì bạn ơi,
-Xin đừng vẽ rồng vẽ rắn thêm cho cuộc đời vốn đã rối ren.
-Xin đừng đeo kính màu để bàn tán về thiên nhiên phong cảnh của một bức tranh.
-Xin đừng bình luận thêm về những vấn đề đang làm nhức đầu thiên hạ. Xin hãy "Dẹp bỏ cổ họng, môi, lưỡi " (1) như một thiền sư đã nói nếu bạn muốn tâm hồn an tĩnh. 
-Hãy nhìn đời như một tấm gương.
-Tấm gương nhìn người đẹp nhưng không nói gì.
-Tấm gương nhìn người xấu nhưng không nói gì.
-Xin đừng nhìn người xấu để nói rằng tâm hồn người đó xấu.
-Xin đừng nhìn người đẹp để tưởng rằng tâm hồn người đó đẹp.
-Đừng nhìn người giàu sang mà tưởng tâm hồn họ thánh thiện.
-Xin đừng nhìn người ăn mày mà tưởng rằng họ không có Phật tánh (2)
-Xin đừng nhìn người giàu sang mà tưởng tâm hồn họ thanh cao.
-Xin đừng nhìn vào ngôi nhà tranh vách đất mà tưởng nơi đó không có tình thương.
-Xin đừng nhìn vào những nụ hôn nồng cháy qua phim ảnh, tài tử ci-nê, công chúa hoàng tử, người mẫu, đám cưới… mà cho đó là lâu đài hạnh phúc.
-Xin đừng nhìn một cậu thanh niên đẹp trai ăn nói ngọt ngào mà cho đó là người chồng lý tưởng.
-Xin đừng nhìn một cô người mẫu chân dài yểu điệu mà cho đó là người trong mộng.
-Xin đừng nhìn vào chiếc xe sang, bộ quần áo đắt tiền với những dự án đồ sộ mà tưởng nơi đó tín nhiệm để rồi bị lừa bạc tỷ.
-Xin đừng nhìn vào nơi thờ phượng Thần Linh huyền bí mà tưởng nơi đó thánh thiện.
-Xin đừng nhìn vào chốn vui chơi, ồn ào náo nhiệt mà tưởng nơi đó là hạnh phúc.
-Xin đừng nhìn vào nơi vắng vẻ thanh tịnh mà cho là buồn chán.
Chính Tham-Sân-Si khiến cái Tâm, cái Nhìn, cái Nghe, cái Thấy, cái Suy Nghĩ của người ta bị méo mó từ đó chỉ nhìn thấy ảnh ảo hay hình ảnh giả tạo mà không nhìn thấy thực tướng tức hình ảnh thật.
Chư Phật, chư vị Bồ Tát, A La Hán vì không bị nhiễm vào Tham-Sân-Si cho nên tâm không dao động. Vì tâm không dao động cho nên nhìn thấy thực tướng của muôn loài.
Hãy ghi nhớ lời Phật dạy:
-Hạnh phúc do nơi Tâm mình mà không do đời tô vẽ.
-Thanh thản do nơi Tâm mình chứ không do cảnh ở chung quanh.
-Thánh thiện và bợn nhơ do nơi Tâm mình mà không do thần linh ban tặng.
-Giải thoát do nơi Tâm mình mà không do nghi lễ. 
-Trói buộc do nơi Tâm mình chứ không phải sợi dây.
-Tội lỗi do nơi Tâm mình chứ không phải do sự lên án của người đời. Bởi vì sự lên án của người đời nhiều khi do hận thù và thương-ghét.
-Không một ai - kể cả Thần Linh Màu Nhiệm - có thể làm cho người khác trở nên thánh thiện và không một ai - kể cả Thần Linh Màu Nhiệm - có thể làm cho phẩm hạnh người khác trở thành hoen ố. (3)
-Không một ai có thể làm cho mình trở nên có phẩm hạnh dù trên mình đeo đủ thứ kim cương, ngọc ngà, châu báu đắt giá nhất, hoặc các chức vụ, quyền thế cao nhất trên thế gian này. Phẩm hạnh cao quý nhất là đạo đức. Mà đạo đức cao quý nhất là làm việc thiện và trang bị tâm mình bằng tâm Phật.
Bạn ơi,
-Không một ai có thể đem lại hạnh phúc – trong khi chính mình lại không muốn kiến tạo hạnh phúc cho mình.
Bạn ơi,
Muốn sống với chân hạnh phúc xin hãy chặt đứt mọi vọng tưởng điên đảo. Khi vọng tưởng điên đảo chấm dứt thì Chân Tâm sáng tỏ.
-Khi Chân Tâm sáng tỏ thì sẽ nhìn thấy vạn vật ở thể chân như.
-Khi nhìn thấy thể chân như của vạn vật thì không còn ảo tưởng.
-Khi không còn ảo tưởng thì bạn sẽ không còn vọng động.
Bạn ơi,
Thế giới càng văn minh, nhu cầu vật chất càng nhiều, con người càng sống với ảo tưởng. Ảo tưởng về sự giàu sang, về trí thức, về vẻ đẹp, về tài năng, về đức độ, về quyền uy, về chân lý, về sự thánh thiện. 
-Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình thánh thiện nhưng thực ra họ chẳng thánh thiện gì cả.
-Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình giàu sang nhưng thực ra họ chỉ là thứ “trưởng giả học làm sang”.
-Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình quý phái nhưng thực ra trên đời này chẳng có gì gọi là quý phái. Quý phái giống như chiếc áo khoác ngoải. Cửi ra thì mọi người đều trần trụi như nhau.
-Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình đẹp nhưng thực ra họ chẳng có gì đáng để chiêm ngưỡng.
Khi không còn ảo tưởng hoặc “viễn ly” được điên đảo mộng tưởng, con người sẽ sống bình dị, khiêm tốn, không hoang phí, không đua đòi, không say mê quyền lực, không còn muốn đè đầu người khác. Đó là một cuộc sống vô cùng an lành.
Hãy ”hành thâm” tức nghiền ngẫm, dùng trực giác, trí tuệ  để hiểu và thực chứng Bát Nhã Tâm Kinh thì lúc đó hành giả sẽ: “Vô hữu khủng bố. Viễn ly điên đảo mộng tưởng.” Khi đã “viễn ly’ được điên đảo mộng tưởng thì Niết Bàn sẽ hiện ra tức thì như lời Phật dạy “chân thực bất hư”.
            Vậy thì:
Một khi đã biết con người luôn luôn nhìn sự vật chung quanh mình bằng cái Vọng-Tâm-Thương-Ghét thì trước một biến động của thế giới, của đất nước, của cộng đồng và thậm chi của làng xóm -  xin hãy để tâm mình lắng đọng, suy nghĩ cho chín chắn rồi mới hành động thì sẽ tránh khỏi sai lầm, gây khổ đau cho chính mình và cho người khác.
Thế giới ngày hôm nay đại loạn chỉ vì đã vô minh mà lại còn vọng động. Một trong những thảm họa của Vô Minh là, cho rằng mình tuyệt đối đúng, mình là chân lý, tôn giáo của mình là tôn giáo duy nhất, quốc gia mình phải bá chủ thế giới.
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy rằng “Cái Vô Minh này không có thực thể”. Bằng thiền định, bằng trí tuệ Bát Nhã hành giả có thể phá vỡ màn vô minh.
Đào Văn Bình
(California ngày 26/ 3/2016)

 (1) Thiền Luận của Đại Sư Suzuki, bản dịch của Trúc Thiên
(2) Kinh Pháp Cú  “ Chỉ có ta làm điều tội lỗi.
Chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm                            
Chỉ có ta tranh  điều tội lỗi.
Chỉ có ta gội rửa cho ta.
                                Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.
Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch
(3) Mới đây nhất tại Hoa Kỳ, một người ăn mày sống vô gia cư (homless) nhặt được một cái ví trong đó có 3300 đô-la,  đã đem tới sở cảnh sát trả lại vì ông ta thấy đây không phải tiền của ông. Hai nông dân nghèo ở Nghệ Tĩnh nhặt được 300 triệu đồng đã đem trả lại cho chủ nhân.





__._,_.___

Posted by: Binh Dao 

CHÚA GIESU KITO CÓ SỐNG LẠI THẬT KHÔNG?

 
CHÚA GIESU KITO CÓ SỐNG LẠI THẬT KHÔNG?
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh



     Nếu chúa Giesu Kito không sống lại thì niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền.
     Vậy thì có chứng cớ lịch sử hiển nhiên nào cho thấy Chúa đã thực sự sống lại?

      Còn ít ngày nữa là Lễ Phục Sinh, kỷ niệm chúa Giesu Kito sống lại từ cõi chết hơn 2000 năm trước. Chúa Kito sống lại là nền tảng của niềm tin Kito giáo. Nếu Chúa không sống lại thì niềm tin của chúng ta trở thành mây khói. Không có sống lại, chúng ta không có thượng tế can thiệp với Thiên Chúa Cha, không có đấng Cứu Chuộc sống với chúng ta để giúp chúng ta thoát khỏi tội lỗi và không hy vọng có ngày sau sống lại. Thánh Phaolo đã viết: “Nếu đức Kito không sống lai thì niềm tin của chúng ta thật là hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi” (1Cr 15:17).

     Chúa Giesu chết cho chúng ta vẫn chưa đủ. Người cần phải sống lại. Thật vậy, thánh Phaolo viết trong thư gửi tín hữu Roma: “Ngay cả khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người chết đi để cho chúng ta được hòa giải với Người, nói chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẵn chúng ta sẽ được cứu giúp nhờ sự sống của người Con ấy” (Rm 5:10…).

     Đức Giesu Cứu Chuộc là sức sống của Kito Giáo. Tuy nhiên trong xã hội ngày nay cũng có một phong trào rất mạnh đang cố làm giảm uy tín và phá hủy cái gia sản Kito giáo ấy của chúng ta, nhất là niềm tin Chúa Phục Sinh. Họ cho rằng đức Giesu cũng chỉ là một người, một thầy dạy và không bao giờ sống lại sau khi bị đóng đanh chết trên Thập Giá.

     Vậy thì làm sao chúng ta có thể biết Chúa thực sự sống lại?
     Có khá nhiều bằng chứng hiển nhiên và chính xác đã ghi trong Tân Ước chứng minh việc Chúa sống lại là thực.

     1- CHỨNG CỚ MẮT THẤY TAI NGHE

     Tân Ước là một bằng cớ hiển nhiên mà chúng ta có thể tin cậy với những lý do xác đáng ghi lại những sự kiện đã thực sự xẩy ra. Tân Ước được viết chỉ vài thập niên sau biến cố vĩ đại ấy, đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe. Nếu là những câu chuyện dàn dựng thì làm sao người ta có thể tin được, mà ngày nay nhiều điều mắt thấy tai nghe vẫn còn lưu truyền đây đó. Tác giả làm sao có thể chạy thoát khỏi những điều họ viết. Cả dân Do Thái lẫn La Mã họ sẽ lột mặt nạ và chẳng ai tin là chúa Giesu sống lại. Nhưng họ đã không làm được.

     Thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Corinto (1Cr15:3-8) đã kể ra một số nhân chứng đã tận mắt thấy Chúa sống lại gồm có chính ngài, 12 tông đồ khác và hơn 500 anh em trong một lúc, trong những người này một số vẫn còn sống, một số đã qua đời.

     Trong cuốn sách nhan đề I Don’t Have Enough Faith to Be an Atheist (2004), đồng tác giả là  Norman Geisler và Frank Turek đã có một đoạn lấy từ một bài viết “The Empty Tomb and the Resurrection” của William Lillie (1965 p.125) như sau:
       “Câu chuyện hiển nhiên nằm trong danh sách các chứng cớ lịch sử là hơn 500 anh em hiện vẫn còn sống. Thánh Phaolo đã viết: ‘Nếu anh em không tin tôi, anh em có thể hỏi họ.’ Một câu xác  quyết như vậy được ghi trong môt lá thư chính thức được viết trong thời gian 30 năm biến cố Chúa sống lại xẩy ra hẳn phải là một bằng chứng hùng hồn như là nó xẩy ra gần 2000 năm trước.”[1]

     Ngoài ra còn có Tin Mừng Marco và một số thư khác được viết trong khoảng 20-30 năm Chúa sống lại như thư gửi tín hữu Galat, 1The-xa-lo-ni-ca và Roma. Vì Phaolo bị hành quyết không lâu sau đó, nên tất cả những thư đó đều được viết trong thời gian những nhân chứng đã chứng kiến sự kiện Chúa sống lại.

     2- NHỮNG NHÂN CHỨNG PHỤ NỮ

     Bốn tác giả Tin Mừng đều nói các bà là những người đầu tiên nhìn thấy ngôi mồ trống và là những người trước nhất chứng kiến Chúa Phục Sinh. Nhưng thời bấy giờ chứng cớ do đàn bà đưa ra thì không có giá trị trước tòa.

     Đã biết vậy thì ai mà lại đặt chuyện ra như thế để cho người ta tin? Đúng ra phải nói là “những người đàn ông thấy ngôi mồ trống rồi loan truyền cho mọi người biết Chúa Cứu Thế đã sống lại!” Còn những người đàn bà chỉ là những người đầu tiên thấy chúa Kito sống lại.

     Không phải chỉ có vậy thôi, mà trong số chứng nhân đàn bà còn có Mary Magdalene, người đã từng bị quỉ ám (Lc 8:2). Lại nữa, ai mà dại gì lại dàn dựng ra loại chuyện như thế? Vì vậy đó mới là dấu hiệu của sự trung thực.

     3- CÁC NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ TƯ TẾ ĐÃ TRỞ LẠI KITO GIÁO

     Luca đã viết trong sách Công Vụ Tông Đồ là “Những người biệt phái Pharisieu đã tin” và “rất nhiều tư tế” đã trở lại đạo và là thành viên của Giáo Hội Sơ Khai (Cv 15:5; 16:7).

     Luca là một thánh sử rất cẩn thận và tỷ mỷ, trong lời tựa mở đầu Tin Mừng của mình đã nhắc đền những chứng nhân và chủ ý diễn tả lại những biến cố theo đúng thứ tự để cho chắc ăn những điều ngài viết ra là chính xác (Lc 1:1-4). Và những câu chuyện kể trong Tin Mừng của ngài và trong Công Vụ Tông Đồ đều chính xác về mặt lịch sử -từ những chi tiết rất nhỏ về vị trí của những thị trấn, chiều sâu của biển ở những chỗ khác nhau và những địa danh chính xác của các thị trấn cho đến tên của các viên chức đã bị lãng quên từ lâu.

     Vậy làm sao ngài có thể nói dối về việc những người đã trở lại đạo trong khi ngài rất cẩn thận về độ chính xác trong những chi tiết nhỏ khác? Nếu nói dối bị lộ thì mọi sự có thể sẽ đổ vỡ hết? Tất cả mọi người sẽ cho Luca là tên nói dối nếu thực sự không có những người Pharisieu và tư tế trở lại đạo. Lúc đó họ sẽ tuyên bố, loan truyền sâu rộng ra là chẳng có ai hoặc rất ít người đã trở  lại Kito giáo. Rõ ràng là gian trá lừa bịp!

     Nhưng, Luca đã tường thuật rất chính xác là những người Pharisieu và các thầy tư tế đã tin  Chúa sống lại và trở lại Kito giáo.

     4- HỐI LỘ TIỀN ĐỂ NÓI DỐI VỀ NGÔI MỘ TRỐNG

      Chúa Giesu phục sinh để lại ngôi mộ trống thì tất cả dân chúng trong miền Judea ai cũng biết. Thánh Mathieu viết:
     “Kìa, mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo in cho các thượng tế biết mọi việc đã xẩy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục. Sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: ban đêm trong lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác đi. Nếu việc này đến tai quan tổng trấn, chúng tôi sẽ dàn xếp với quan để cho các anh được vô sự. Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dặn. Câu chuyện này được loan truyền giữa những người Do Thái cho đến ngày nay.” (Mt 28:11-18).

     Như vậy là mọi người đều đã biết rõ ràng câu chuyện mồ trống và việc đút lót tiền. Nếu Mathieu đặt truyên ra thì sẽ dễ dàng bị lật tẩy vì dân chúng sẽ nói chẳng ai nghe biết gì về việc này. Nhưng họ đã nghe biết rõ ràng như vậy. Họ biết là xác Chúa Giesu không còn ở trong mồ nữa dù lính đã canh chừng rất cẩn mật.

     Các môn đệ làm sao qua mặt được lính gác để đánh cắp xác Chúa? Tất cả lính gác đều ngũ hay sao? Nếu vậy thì là một trọng tội. Vì thế chính quyền Do Thái đã đưa  tiền hối lộ cho linh gác và hứa sẽ dàn xếp với quan tổng trấn để họ không bị xử tội.

     Quang cảnh mồ Chúa Giesu thì tất cả mọi Kito hữu, cả người Do Thái lẫn La Mã đều biết.  Những ai nghi ngờ có thể kiểm chứng dể dàng. Sự thực, không một ai –cả chính quyền La Mã lẫn  Do Thái- tuyên bố là xác chúa Giesu vẫn còn nguyên trong mồ. Nhưng họ lại bịa ra câu chuyện  là các môn đệ đã đánh cắp xác chúa, một chuyện vô lý mà ngay cả những người đa nghi nhất cũng không tin.

     5- CÁC CHỨNG CỚ ĐỀU PHÙ HỢP VỚI LỊCH SỬ

     Tân Ước đưa ra những tin tức và dấu tích địa dư rất phù hợp với lịch sử và xác nhận của những nhân vật có danh tiếng và uy tín.

     Geisler và Turek đã viết rõ ràng: “Nếu viết sai thì các thánh sử Tin Mừng chẳng có cách nào có thể thoát khỏi những lời viết láo về quan Philato, Caipha, Festus, Felix và toàn thể dòng họ Herode. Có người có thể sẽ lột mặt nạ các ngài vì đã lôi kéo bậy bạ những nhân vật này vào những biến cố không có thực chẳng bao giờ xẩy ra. Các thánh sử hẳn cũng biết vậy và đã không kể ra những nhân vật danh tiếng như thế trong một câu chuyện giả tưởng với ý định lừa bịp. Cách cắt nghĩa hay nhất là các ngài đã ghi lại chính xác những điều các ngài đã biết và trông thấy” (p.225).

     Những nhân vật lịch sử đã được nhắc tới trong Tân Ước cũng thấy trong những tác phẩm của các tác giả không phải Kito hữu cho thấy câu chuyện chính xác: Giesu, Agrippa I, Agrippa II, Ananias, Annas, Aretas, Bernice (vợ của Agrippa II), Caesar Augustus, Caiaphas, Claudius, Drusilla, Erastus, Felix, Gallio, Gamaliel, Herod Antipas, Herod Archelaus, Herod the Great,  Herod Philip I, Herod Philip II, Herodias, Giacobe bà con chúa Giesu, Gioan Tiền Hô, Judas người Galile, Lysanias, Philate, Quirinius, Porcius Festus, Salome (con gái Herodias), Sergius Paulus và Tiberius Caesar.

    Tên của những đặc tính chính của Kinh Thánh cũng thấy nói tới trong những tác phẩm không phải Kito giáo lại một lần nữa chứng minh những điều nói trong Kinh Thánh là chính xác.

     6- CHỨNG NHÂN CỦA NHỮNG NGUỒN KHÔNG PHẢI KITO GIÁO

     Mười tác giả nổi danh không phải Kito hữu đã nhắc đến chúa Giesu trong vòng 150 năm trước và sau khi Chúa chịu chết đã giúp chứng minh những điều nói trong Kinh Thánh là có thật.

     Đó là Josephus, một sử gia người Do Thái viết về chính quyền La Mã; Tacitus, sử gia người La Mã; Pliny em, một chính trị gia người La Mã; Phlegon, một nô lệ được trả tự do đã viết về lịch sử; Thallus, một sử gia ở thế kỷ I; Seutonius, một sử gia La Mã; Lucian thành Samosata, một châm biếm gia người Hy Lạp; Celsus, một triết gia La Mã; Mara Bar-Serapion viết về con trai mình và Talmus, người Do Thái.

     Ngược lại, trên cùng 150 năm đó, có 9 nguồn không phải Kito giáo cũng nhắc đến Tiberius Caesar, hoàng đế La Mã vảo thời sứ vụ Chúa Giesu. Vậy không kể những nguồn Kito giáo, chúa Giesu được nhắc đến một lần hơn cả Hoàng đế La Mã. Nếu gom lại cả những nguồn Kito giáo thì số tác giả nhắc đến tên Chúa Giesu vượt hơn cả số nhắc tới Tiberius những 4 lần.

     Geisher và Turek đã liệt kê trong sách của các ông những điều góp nhặt được từ 10 tác giả, trong đó có một số chống Kito giáo. Họ chứng nhận chúa Giesu đã sống vào thời Tiberius Caesar và có cuộc sống rất đạo hạnh, là một người lao động phi thường, có người em bà con là Giacobe và tuyên xưng là đầng thiên sai, đã bị đóng đanh chết trện thập giá dưới thời tổng trấn Philato vào ngày áp lễ vượt qua của người Do Thái, lúc đó trời thành tối xầm và đất rung chuyển.

     Sau này họ quả quyết là các môn đệ của Chúa tin rằng Chúa đã sống lại từ cõi chết và họ sẵn sang chết vì niềm tin của họ. Họ đã phổ biến rộng rãi Kito giáo đến tận La Mã và chối bỏ các thần La Mã để chỉ thờ phượng Chúa Giesu là Thiên Chúa thôi (p.223)

     Còn nữa, dữ kiện thấy trong sách The Case for the Real Jesus của Lee Strobel (2007, p.113). Strobel liên hệ đến một tác giả khác là Edwin Yamauchi như sau:
     “’Chúng ta có những tài liệu lịch sử về chúa Giesu còn giá trị hơn cả tài liệu về người sáng lập bất cứ một tôn giáo cổ xưa nào khác,’ (lời giáo sư Edwin Yamauchi, đại học University of Miami, chuyên viên hàng đầu về lịch sử cổ đại). Những nguồn ngoài Kinh Thánh cũng chứng minh nhiều người tin là chúa Giesu đã làm nhiều phép lạ chữa lành bệnh và là đấng Thiên Sai đã bị đóng đanh chết trên thập giá. Dù phải chết một cách nhục nhã như vậy, những người theo ông ta vẫn tin rằng Chúa Giesu còn sống và thờ kinh như là Thiên Chúa. Một chuyên viên lịch sử cổ đại đã đưa ra 39 nguồn để chứng minh hơn 100 dữ kiện liên quan đến đời sống chúa Giesu, những giảng huấn, bị đóng đanh chết trên thập giá và sống lại”[2] (p.272)

ĐÔI LỜI KẾT: CHÚA GIESU KITO ĐÃ SỐNG LẠI THẬT.

     Chúng ta có thể tin Chúa Giesu Kito đã sống lại thực sự không? Không hồ nghi gì nữa, các kito hữu của giáo hội sơ khai đã tin và nhiều người trong số những tín hữu ấy đã chứng kiến sự thật đó.

     Strobel tóm tắt rõ ràng:
  1- “Các môn đệ là những người duy nhất ở vị thế biết Chúa đã sống lại và họ đã chết để chứng minh lời họ tuyên xưng là thật. Chẳng có ai biết rõ và sẵn sàng chết vì điều mình nói láo.
  2- “Ngoài chuyện Chúa sống lại ra, không có lý do nào khác vững chắc chứng tỏ tại sao hai ông Phaolo và Giacobe đa nghi như vậy lại trở về với Chúa rồi chết vì niềm tin của mình.
  3- “Trong vòng những tuần lễ Chúa bị đóng đanh chết đã có hàng ngàn người Do Thái trở lại, tin chúa Giesu là Con Thiên Chúa và theo Người, bỏ đi những tập tục xã hội, tôn giáo cũ đã có  hàng cả thế kỷ. Họ đã tin, họ đã chấp nhận bị luận phạt nếu họ sai lầm.
  4- “ Phép Mình Thánh Chúa (Chúa lập trong bữa tiệc ly), bí tích Rửa Tội chứng minh Chúa Giesu sống lại và là Thiên Chúa.
  5- “ Sự chỗi dậy một cách lạ lùng của Giáo Hội trong lúc La Mã đang hành quyết một cách tàn ác và dữ dội ‘đã tạo một điểm vĩ đại trong lịch sử, một đặc điểm có chiều kích và hình dáng Chúa Phục Sinh’….Bằng chứng hiển nhiên đó là Chúa Giesu Kito là đấng đã tuyên xưng là…người và là Con Một Thiên Chúa” (p.276).

     Như Luca đã ghi lại lời Phero quả quyết: “Chính chúa Giesu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại mà tất cả chúng tôi là những chứng nhân…..Do đó, tất cả nhà Israel phải biết chắc chắn điều này: Đức Giesu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Chúa và làm đấng Kito”(Cv 2:32, 36).

     Chúng ta hãy tạ ơn Cha chúng ta ở trên trời là chúa Giesu đã sống lại từ cõi chết. Người còn sống và, trong khi chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa qua cái chết của Con Một Người, thì nhiều, nhiều người nữa sẽ cùng với chúng ta cũng được hòa giải, bởi cái chết của Người trên Thập Giá.”


Fleming Island, Florida
March 25, 2016
NTC    


[1] What gives special historical evidence to the list as historical evidence is the reference to most of the five hundred brethren being still alive. St Paul says in effect: ‘If you do not believe me, you can ask them.’ Such a statement in an admittedly genuine letter written within thirty years of the event is almost as strong evidence as one could hope to get for something that happened nearly two thousand years ago.”
[2] “’We have better historical documentation for Jesus than for the founder of any other ancient religion,’ said Edwin Yamauchi of Miami University, a leading expert on ancient history. Sources from outside the Bible corroborate that many people believed Jesus performed healing and was the Messiah, that he was crucified, and that despite this shameful death, his followers, who believed he was still alive, worshiped him as God. One expert documented thirty-nine ancient sources that corroborate more than one hundred facts concerning Jesus’life, teachings, crucifixation, and resurrection” (p.272)
__._,_.___


Posted by: FXavvy@aol.com

7 Câu Nói đáng Suy Ngẫm

7 Câu Nói đáng Suy Ngẫm








                                          


______________

Friday, March 25, 2016

Kính thưa chư quý đồng đạo Phật Giáo Hòa Hảo

 
                                   
                                                   
                                                                     Giáo Hội PGHH Trung Ương
                                                             Và Điều Hành PGHH Truyền Thống VN
                                               Chiếu Phép số: 2904014 sep 15 -2006 và TID20-8840924
                                                            5026 West Fifth St Santa Ana CA 92703-3122
                                                                PO.BOX 2133 Westminster , CA 92684
                                                                            Phone: 714.589.6860                                                                         
                                                                              So: 63 /PGHH/ T.Ư

     
Kính thưa chư quý đồng đạo Phật Giáo Hòa Hảo                                                                                             .     
Không biết đ/đ Phan Thị Hoa nghe lời ai mà thâu Lịch sử Đức Phật ThầyTây An trong máy IBASTEK nói “ Đức Phật Thầy Tây An là con của vua Quang Trung và Ngọc Hân Công Chúa “  là sai hoàn toàn với Sử học Việt Nam, xin đ/đ Phan Thị Hoa ở Houston TX nên hùy bỏ bài lịch sử đó, và chư quý đồng đạo nên nghiên cứu lịch sử mà lý giải theo khoa học biện chứng, đừng mê tín dị đoan  nghe theo lời vu vơ  của kẻ khác vịn vào một vài lời không rõ ràng của Ông Ba Thới trong Kim Cổ Kỳ Quan và của một thầy tu người Việt gốc Miên ở Bạc Liêu  mà bị quỉ dắt đường công, làm tổn hại thanh danh Phật Giáo Hòa Hảo. Vì người ngoài có thể nghĩ Đoàn Thể Phật Giáo Hòa Hảo toàn là người thất học không thuộc Sử học Việt Nam!!!                                                                                                                                                                      .      
Bài nói Đức Phật Thầy Tây An là con vua Quang Trung không đúng lịch sử . Đó là sự  phá hoại lịch sử của Đức Phật Thầy Tây An, nhằm phá hoại đức tin của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và Bửu Sơn Kỳ Hương. làm sai lịch sử của bất cứ vị Phật nào, cũng có thể tự hủy bỏ công đức một kiếp tu hành, phải luân hồi kiếp khác tu tiếp hoặc bị đọa đày trở về ngạ quỉ súc sanh.       
                                      .         
Mong quý đồng đạo phải hiểu lịch sử  để  lý  giải theo khoa học biện chứng về bất cứ một vị Phật nào, nhằm tránh tội lỗi, đừng làm vấp phải  uổng công một kiếp tu hành.  Xin xem lịch sử dưới đây:                           

     ĐỐI CHIẾU  SỬ HỌC VỀ ĐỨC PHẬT THẦY TÂY AN                                           .                                    ĐOÀN MINH HUYÊN NHƯ SAU
                                                  ---oOo---
Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch, sự truyền thừa nối tiếp được 33 đời TỔ, vào năm 658 đến năm 713, là vị Tổ cuối cùng của 33 đời Tổ  là Lục Tổ Huệ Năng, Ngài  bậc truyền Y bác.Mãi đến năm Kỷ Dậu 1849 Phật Thầy Tây An mới ra đời kêu gọi chúng sanh tu hành theo chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca. Đến năm Bính Thìn 1856, Phật Thầy Tây An viên tịch tại núi Sam Châu Đốc.                                                                                                                                                    .      
Những năm gần đây, sau khi Cộng sản Hà Nội chiếm được Việt Nam Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, Cộng sản tung ra một số tài liệu tuyên truyền dối trá, nhắm vào sự phá hoại đức tin của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và Bửu Sơn Kỳ Hương. 

Những người đặt ra giả thuyết đó, không có trình độ Sử học và kém khuyết khả năng nghiên cứu theo khoa học biện chứng hiện đại, nói Đức Phật Thầy Tây An là con của vua Quang Trung và bà Ngọc Hân Công chúa lá “ SAI “; ngụ ý muốn biến lịch sử mầu nhiệm của vị Phật lâm phàm vì cái bổn nguyện cứu độ chúng sanh, chấn hưng Đạo Phật đang bị suy đồi, làm cho đức độ cao cả ấy , trở  thành một gia đình phàm tục thất sủng mới đi tu.                                                                                                                                                           .       Bởi đó, tư cách Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Hòa Hảo và Điều Hành Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống Việt Nam, phải có bổn phận chứng minh cuộc đời của Đức Phật Thầy Tây An, Đoàn Minh Huyên một cách sáng tỏ theo Sử học Việt Nam, để những ai đã lầm lẫn về Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên , từ nay được sáng suốt hiểu biết hơn.

     Nguồn gốc của Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, có một chiều dái lịch Sử 205 năm, còn ghi lại trong sách Địa Phương Chí do các vị nhân sĩ Nho thâm huyên bác thời đó ghi chép trực tiếp khi Đức Phật Thầy Tây An còn nhỏ ở làng Tồng Sơn, tổng Phong Thạnh Thượng tỉnh Sa Đéc Nam Phần Việt Nam.                                                                                                                                    .      Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 , sách Địa Phương Chí vẫn còn lưu truyền nhiều nơi, và được nhiều đời người gìn giữ : 1/-Tại Đình Tồng Sơn, Sa Đéc, 2/-Tại chùa Phật Thầy Tây An núi Sam, Châu Đốc, 3/-Tại chùa Tây An Cổ Tự xã Long Kiến, Chợ Mới, An Giang, 4/-Thư viện Phật Giáo Hòa hảo tại xã Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc.    
                                                           .     
Trong lúc các vị Nho thâm chép sách Địa Phương Chí Đức Phật Thầy Tây An còn hai người anh em chú bác còn sống tại làng Tồng Sơn, tổng Phong Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc Nam Phần:

     1/-Ông Đoàn Văn Điểu
    2/-Ông Đoàn Văn Viên

    Sách Địa Phương Chí là do những nhân sĩ Nho thâm trong làng ghi chép lại sự thật đang xảy ra tại mỗi địa phương dân chúng đều biết, chứ không phải những nhà chép Sử theo lịnh của triều đình cắt cử để được yên thân hưởng bổng lộc, hay những cây bút Việt gian có truyền thống nhiều đời, ông cha bán nước cho cường quốc xâm lăng nước Việt Nam ta. Hoặc những ký giả ngoại bang theo đoàn quân cướp nước…                                                                                                .     Căn cứ theo Sử học Việt Nam từ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 được biết:                                .     
1/-Sanh vua Quang Trung năm 1752 tại miền Trung Việt Nam                                                                 .      
2/-Vua Quang Trung làm vua được 4 năm ( 1788 – 1792 = 4 năm ).                                                      .       
3/-Vua Quang Trung chết năm 1792, thọ được 40 tuổi                                                                             .        
4/-Công Chúa Ngọc Hân chết năm 1799.                                                                                                         .         
5/-Sanh Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên lúc 12 giờ trưa ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão 1807, tại làng Tồng Sơn, tổng Phong Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đé, Nam Phần nhằm năm Gia Long thứ sáu.                                                                                                                                                                 .                                            
SAI BIỆT LỊCH SỬ:
1/-Chiếu theo lịch sử ghi lại như trên, cho ta thấy ngày tháng năm sanh Đức Phật Thầy Tây An , Đoàn Minh Huyên sau khi vua Quang Trung đã chết 15 năm, ( kể từ năm 1792 – 1807 = 15 năm ). Như vậy không lẽ hồn ma của vua Quang Trung hiện về giao hợp được với bà Ngọc Hân Công Chúa, để đẻ ra Đức Phật Thầy Tây An sau 15 năm hay sao, khoa học nào chứng minh việc nầy ?

2/-Bà Ngọc Hân Công Chúa chết năm 1799, trước khi sanh Đức Phật Thầy Tây An, Đoàn Minh Huyên tới 8 năm (  từ năm 1792 – 1807 = 8 năm ), có lý nào bà Ngọc Hân Công Chúa chết còn mang thai theo dưới đáy mồ  chờ 8 năm sau mới sanh Đức Phật Thầy Tây An, Đoàn Minh Huyên, khoa học nào chứng minh được ?

     Đó là sự sai biệt rất lố bịch và kẻ đặt ra câu chuyện là đồ thất học, không biết sử liệu Việt Nam lại có ác ý và cũng không đo lường được hậu quả khi bị đối chiếu về Sử học Việt Nam một cách rõ ràng như thế nầy, để người nói Đức Phật Thầy Tây An, Đoàn Minh Huyên là con của vua Quang Trung và bà Ngọc Hân Công Chúa, trở thành kẻ ngu ngốc, trên đời không có mấy ai ngu bằng !..                                                                                                                                                                              .     …
( Trích bài Tôn Giáo và Dân Tộc của Huỳnh Kim, đã được Văn Bút thê giới chọn đăng Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, PEN  số 2,  năm 2012.                                                                                                 .        Rất mong chư quý đồng đạo phải hiểu về Sử học để hiểu Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ và nghiên cứu thì biết Đức Huỳnh Giáo Chủ hay Phật Thầy Tây An là vị Phật ‘ Kim Sơn “ Phật cổ chứ không phải con vua Quang Trung mới tu thành Phật.

                   Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
                 Nam Mô A Di Đà Phật
   
 California,  ngày 23  tháng 3 năm 2016                                                                                                              .              
TM.Giáo Hội PGHH Trung Ương                                                                                                     .      Và Điều Hành PGHH Truyền Thống VN                                                                                                               .                           

Hội Trưởng                                                                                                                                              .                           
( ký tên )                                                                                                                                         .                     
Huỳnh Kim, Nguyễn Ngọc Sơn
__._,_.___

Posted by: jh hk 

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List