Popular Posts

Saturday, December 30, 2017

Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H


 
Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H.
ĐIỆP MỸ LINH

Thấy một thanh niên trông quen quen, mặc quân phục Hải Quân, đi ngược chiều với mình, Thạch chậm Vespa lại. Nhận ra người bạn thân hồi trước học trường Hưng Đạo rồi sau cùng vào Đại Học Khoa Học với chàng, Thạch thắng Vespa, reo lên:
-Luân! Phải Luân không?
Chàng Hải Quân ngạc nhiên:
-Ủa, Thạch! Mày làm gì mà mặc đồ Biệt Động Quân “ngon” vậy?
-Tao bị động viên vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức; ra trường, xin về Biệt Động Quân. Còn mày, đi Hải Quân hồi nào? Tao nhớ hình như mày nhỏ tuổi hơn tao mà.
-Ừ, tao chưa bị động viên; nhưng thấy bạn bè nay đứa này “lên đường”, mai đứa kia bị thương, mốt đứa khác tử trận, tao chịu không được, tình nguyện vào Hải Quân.
-Hải Quân mà giờ này lang thang ở đây?
-Chiến hạm vừa về nghỉ bến, tao muốn ghé thăm bà Cô để nhờ nhỏ em chở giùm về nhà Bố Mẹ tao. Còn mày?
-Tao đi phép về thăm gia đình. Mày đi đâu, tao chở mày đi?
Vừa “phóng” lên phía sau Vespa Luân vừa nói:
-Cảm ơn mày. Cô tao ở gần đây thôi.
-Có phải bà Cô mà hồi trước tụi mình thường tới chơi rồi đàn hát “lung tung beng” hay không?
-Đúng rồi.
-Vậy thì tao nhớ rồi.
Thạch chợt nhớ Cô có người con gái đàn và hát rất hay, nhưng chàng không nhớ tên; vì lúc đó cô bé còn nhỏ, chưa gợi được sự chú ý của thanh niên.
Thạch dừng Vespa trước nhà Cô. Luân bước xuống, chưa kịp cảm ơn Thạch thì Thủy Ngọc – con gái của Cô – đi học vừa về. Thủy Ngọc vui mừng chào Luân và Thạch rồi đi vào nhà. Ánh mắt của Thạch không rời Thủy Ngọc.
Thấy ánh mắt của Thạch, Luân hơi phân vân; vì biết Chú của chàng không thích nhà binh – nhất là sĩ quan thuộc các quân binh chủng “thứ dữ” – vì Ông ngại con gái của Ông sẽ…Nhưng nếu, ngay bây giờ, Luân từ giả người bạn thân từng học chung, đi biểu tình chung, từng “văn nghệ văn gừng” với nhau trên các sân trường đại học thì Luân không đành!
May quá, nhờ Thủy Ngọc cho biết có Luân và Thạch đến thăm, Cô bước ra cửa:
-Luân! Sao không đưa bạn vô nhà chơi, con?
Luân chưa kịp đáp, Thạch đã vội dựng Vespa, cúi chào:
-Dạ, kính chào Cô. Lâu rồi mà Cô vẫn nhận ra cháu.
-Cháu bận đồ lính thấy khác thật, nhưng Cô vẫn nhận ra. Vô chơi, cháu.
Từ hôm đó, mỗi ngày Thạch đều đến Bến Bạch Đằng, lên chiến hạm HQ505, rủ Luân đi thăm Cô. Như dạo còn đi học, mỗi khi đến nhà Cô, Thạch thường đệm Guitar, Luân đàn Piano, Thủy Ngọc đàn Violon; đôi khi ba người thay đổi nhạc cụ hoặc cùng hát bên nhau.
Sau đó, mỗi khi về phép, Thạch đều đến nhà Cô để thăm Thủy Ngọc. Thời gian này Thủy Ngọc đã trở thành một thiếu nữ cao, với những đường nét rất cân đối cùng gương mặt xinh đẹp, nhân hậu và đôi mắt nâu thơ dại. Chính nét thơ dại trong đôi mắt nâu nồng nàn và khuôn mặt phản phất vẻ đẹp Tây Phương cùng với tiếng đàn, tiếng hát của Thủy Ngọc mà rất nhiều chàng trai say mê, theo đuổi nàng.
Thạch thầm tiếc là thời gian trước đây, cùng Luân đến thăm Cô và biết Thủy Ngọc học cùng trường, Thạch đã không hề để ý đến cô bé con, người còn “suôn đuột”, “chưa có ngực”. Bây giờ, mỗi lần về phép là mỗi lần hồi hộp, vì Thạch không biết Thủy Ngọc đã bị ai chinh phục hay chưa!
Riêng Thủy Ngọc, dù biết Bố không thích nàng giao thiệp với nhà binh, nàng cũng vẫn bị cuốn hút vì bộ quân phục thẳng nếp, mái tóc cắt ngắn, làn da sạm nắng, dáng đi hiên ngang, đôi mắt nhìn thẳng và thái độ tự tin.
Tình yêu trong lòng Thủy Ngọc và Thạch âm thầm nảy sinh cho nên chàng và nàng thường chọn những tình khúc có lời ca ướt lệ để cùng đàn, hát bên nhau.
Những khi vắng Thạch, Thủy Ngọc thường thẩn thơ một mình, nét mặt buồn buồn và đôi mắt xa xăm như mong ngóng một điều gì! Khi Thạch về phép, ghé thăm, Thủy Ngọc tươi cười, líu lo như chú chim non vừa sổ lồng.
Mỗi khi thấy sự thay đổi thái độ nhanh chóng của Thủy Ngọc, Bố Mẹ của nàng tự hỏi, tại sao Thủy Ngọc không vui tươi, hớn hở đối với những thanh niên khác, có bằng cấp và địa vị cao, đang cố chinh phục nàng mà nàng lại chỉ vui tươi hớn hở với Thạch thôi?
Không những thế, khi Thạch và Thủy Ngọc cùng đàn và hát bên nhau, Bố Mẹ của Thủy Ngọc để ý: Dư Âm là tình khúc Thủy Ngọc và Thạch cùng đàn và hát nhiều nhất; kế đến là Love Me Tender. Bố Mẹ của Thủy Ngọc không hiểu tiếng Anh, nhưng động từ “love” thì Bố của Thủy Ngọc biết. Thế là Bố chỉ cần nhớ chữ “tender” rồi phiên âm ra tiếng Việt, hỏi Luân. Luân vô tình và ngay thật cho Bố biết đó là tựa một tình khúc của Elvis Presley. Bố bảo Luân dịch lời ca ra tiếng Việt.
Sau khi hiểu rõ lời ca, Bố Mẹ trực tiếp cho Thạch hay rằng Ông Bà không cho phép Thủy Ngọc giao thiệp với Thạch nữa!
******
Nơi hậu trường, cách sân khấu bằng một tấm màn dày, thấy Thủy Ngọc đang hóa trang cho màn trình diễn thời trang, thái độ rất vui và tự tin, Thầy phụ trách văn nghệ hỏi:
-Thủy Ngọc! Sẵn sàng cả rồi chứ?
-Dạ, thưa Thầy…
Vừa nói ngang đó, Thủy Ngọc chợt dừng lại; vì giọng Tenor của ai nghe quen quen, vang lên từ bên kia bức màn ngăn cách sân khấu và hậu trường: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ. Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ…”(1) Thủy Ngọc nhíu mày, đứng lặng như pho tượng! Nhưng trong tiềm thức, tình yêu nàng âm thầm dành cho Thạch bỗng cuồn cuộn trổi dậy như cuồn phong!
Riêng Thạch, sau khi bị Bố Mẹ của Thủy Ngọc yêu cầu đừng liên lạc với Thủy Ngọc nữa, Thạch rất buồn và thất vọng! Những lúc hành quân truy kích hoặc trực thăng vận nhảy ngay trên đầu địch, Thạch quên mất nỗi buồn; nhưng khi rảnh rỗi hoặc nghe ai đàn, hát một nhạc phẩm mà chàng và Thủy Ngọc thường đàn và hát bên nhau thì nỗi buồn và sự thất vọng kéo về, đè nặng trong tim! Giờ đây, đang diễn đạt tất cả nỗi niềm của tác giả và cũng là niềm đau của chàng, giọng Thạch trở nên tha thiết vô cùng: “…Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời….Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ…Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu năm tháng mong chờ…”(2)
Mấy năm qua, những kỷ niệm khi Thạch và nàng cùng đàn hát bên nhau tưởng đã chìm vào dĩ vãng; nhưng bây giờ, tiếng hát cao vút của ai bên kia tấm màn lại làm cho trái tim của Thủy Ngọc thổn thức âm thầm – nhưng rất dữ dội!
Thái độ của Thủy Ngọc làm Thầy phụ trách văn nghệ thắc mắc:
-Thủy Ngọc! Chị bình an chứ?
-Dạ…thưa Thầy, ai…ai… đang hát ngoài đó, thưa Thầy?
-Nhận không ra giọng à? Thạch đó. Thạch hồi trước cũng trong ban văn nghệ với Luân và Thủy Ngọc đó, nhớ không?
-Dạ thưa Thầy, hôm tổng dợt, sao con không thấy màn đơn ca của anh Thạch trong chương trình?
-Hôm qua Thạch ghé thăm trường, biết trường có buổi văn nghệ đêm nay, Thạch xin hát một bài. Nhận thấy Thạch là học trò cũ, năng khiếu văn nghệ cao, lại lên đường tòng quân, tôi cảm phục và chấp thuận. Thôi, chị chuẩn bị đi, sắp đến phiên chị đó.
Nói xong, Thầy quay đi. Thủy Ngọc thở dài vừa khi Thạch chấm dứt màn đơn ca trong tiếng vỗ tay vang dội; rồi nhiều tiếng “bis…bis…” vang lên. Thạch nói vào micro:
-Xin cảm ơn quý vị, quý Thầy Cô và các bạn. Tiếp theo, Thạch xin trình bày tình khúc My Heart Will Go On của Celine Dion
Lại tiếng vỗ tay. Thạch dạo đàn rồi “bắt” vào: “Every night in my dreams, I see you, I feel you that is how I know you go on. Far across the distance and spaces between us you have come to show you go on…” Theo giọng hát buồn buồn của chính mình, Thạch nhớ những buổi chiều im vắng, sau khi hành quân trở về, chàng thường ôm Guitar, vừa đàn vừa hát vừa nhìn dòng suối cạn phía xa trong khi hoàng hôn lũ lược kéo về phủ xuống núi rừng thâm u.
Nơi vùng núi rừng thâm u đó, mỗi khi đoàn quân dừng chân, Thạch thường chạnh lòng nghĩ đến phận đời của chàng và của những thanh niên cùng thế hệ với chàng – ở miền Nam – rời gia đình, xa người thân và bạn hữu, phải hành quân liên miên để chống trả những đợt tấn công ác liệt của Bắc quân xâm lược!
Suốt thời gian được tăng phái, Thạch không thể nhớ được bao nhiêu lần đơn vị chiến lược này bị “tiền pháo, hậu xung” và bị tấn công bằng chiến thuật “biển người”. Thạch chỉ nhớ lần cuối cùng, để giải tỏa áp lực của Bắc quân quanh đơn vị chiến lược này, đơn vị của chàng được lệnh tham dự cuộc hành quân hỗn hợp với một đơn vị Bộ Binh, vào một ngày mưa to gió lớn, có thiết giáp yểm trợ để càn quét các đơn vị Cộng Sản Việt Nam từ Bắc xâm nhập.
Chính trong cuộc hành quân quy mô này Thạch bị Bắc quân dùng súng CKC bắn sẻ, khi Thạch đang khom người điều quân qua ống liên hợp. Viên đạn trúng chân trái của Thạch. Thạch và Tiểu Đoàn Trưởng Thiết Giáp xin trực thăng tải thương; nhưng thời tiết quá tệ và cũng vì súng phòng không của địch bắn lên xối xả, trực thăng không thể “bốc” thương binh!
Khi được đưa về quân y viện, vết thương đã sưng to và làm độc!… Nhớ đến đây, giọng Thạch trở nên nghẹn ngào, đầy u uất:“…And my heart will go on and on. Love can touch us one time and last for a lifetime and never let go till we’re gone…”
Trong khi nén xúc động, cố kềm nước mắt để Thầy và bạn khỏi biết, Thủy Ngọc chợt nghe các nam sinh “xầm xì”:
-Anh Thạch “hết sẩy”! Ảnh “ngon” thiệt!
-Tội nghiệp ảnh quá!
Hai tiếng “tội nghiệp” khiến Thủy Ngọc tò mò. Bước đến bên trái sân khấu, nhìn ra, Thủy Ngọc ôm ngực, tưởng như trái tim của nàng đã thoát khỏi lồng ngực! Trước mắt nàng, Thạch – trong quân phục Biệt Động Quân, mũ nâu vắt hờ vào cầu vai trái – đang ngồi trên ghế, chiếc nạn gỗ dựa thành ghế, hai tay của Thạch ôm Guitar. Thạch tựa thùng Guitar lên bắp vế chân phải và đệm theo tiếng ca não nùng của chàng. Như không tin vào mắt mình, Thủy Ngọc cố thay đổi vị thế nhưng nàng cũng chỉ thấy một chiếc giày trận bên chân phải của Thạch thôi!
Trong khi Thủy Ngọc run rẩy, nước mắt nhạt nhòa thì Thạch hát đến câu cuối: “…We’ll stay forever this way. You are safe in my heart. And my heart will go on and on.” Thạch cúi chào. Cả hội trường vừa vỗ tay vừa đứng lên.
Thủy Ngọc hy vọng rằng Thạch sẽ vào hậu trường bằng cánh trái để nàng có dịp trực diện với chàng; nhưng, không hiểu vì vô tình hay cố ý, Thạch rời sân khấu bằng cánh phải. Thủy Ngọc ôm mặt, khóc như mưa!
Vài cô bạn cho Thầy phụ trách văn nghệ biết sự việc đang xãy ra cho Thủy Ngọc. Thầy đến, đưa Thủy Ngọc ra sau tấm màn:
-Tại sao chị lại xúc động quá độ như vậy?
Tự nhủ, sẽ không để niềm đau thương của riêng mình ảnh hưởng đến buổi văn nghệ mà toàn trường đã dày công tập luyện, Thủy Ngọc trở nên bình tĩnh một cách lạ thường:
-Thưa Thầy, con xin lỗi. Như Thầy biết, anh Thạch là bạn cùng lớp với anh Luân của con. Anh thạch thường đến nhà con hòa đàn với anh Luân và con. Bây giờ, bất ngờ thấy anh Thạch như thế con chịu không được!
-Tôi hiểu. Chị nghĩ chị có vững tinh thần để giữ tiết mục độc tấu Violon hay không?
-Dạ, thưa Thầy…
Bất ngờ một ý nghĩ thoáng qua, Thủy Ngọc tiếp:
-Thầy cho con xin một đặc ân, được không ạ?
-Vâng, chị cứ nói.
-Thưa Thầy, con xin Thầy cho con được đổi mục độc tấu bằng mục đơn ca.
Đã từng nghe Thủy Ngọc hát nhiều lần trong những buổi văn nghệ trước đây, Thầy gật đầu:
-Vâng. Chị cho người giới thiệu chương trình biết sự thay đổi này và cho anh đàn Guitar biết “tông” và nhịp điệu của bản nhạc, nhé!
-Dạ. Con xin cảm ơn Thầy.
Sau khi nghe người điều khiển chương trình giới thiệu Thủy Ngọc sẽ trình bày ca khúc Kỷ Vật Cho Em của Phạm Duy, Thạch cảm thấy bồi hồi, xúc động! Nhìn dáng Thủy Ngọc thướt tha bước ra, cúi chào, đến sau micro rồi kéo micro cao hơn, Thạch tự hỏi, không biết tình cờ Thủy Ngọc chọn ca khúc này hay là…Thạch thở dài, lắc đầu, không muốn nghĩ tiếp.
Dạo phân đoạn đầu xong, người đàn Guitar “rải” một tràng hợp âm và Thủy Ngọc “bắt” vào: “Em hỏi anh. Em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ. Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân…” Nét mặt thống khổ, hai hàng nước mắt tuôn dài cùng tiếng ca nức nỡ của Thủy Ngọc khiến tất cả khán giả bàng hoàng đến sửng sờ!
Đến đoạn điệp khúc, giọng Soprano của Thủy Ngọc vút cao: “…Anh trở về nhìn nhau xa lạ. Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen. Cố quên đi một lần gian dối, anh ơi!…”. Một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân, chống nạn, khập khểnh rời hội trường; vì trái tim của quân nhân này không thể nhận thêm bất cứ sự đau đớn, dày vò nào nữa!…
******
Thấy Luân cùng với Bố Mẹ đến thăm, Ni Cô Diệu Thu rất ngạc nhiên; càng ngạc nhiên hơn nữa khi Ni Cô thấy thái độ của Luân rất bối rối, bồn chồn và Bố Mẹ thì lo âu, buồn bả, chứ không bình thản như những lần Bố Mẹ đến thăm nàng trước đây. Luân nhập đề ngay:
-Ni Cô có theo dõi thời sự hay không?
-Dạ không. Nhưng em nghe nhiều Phật tử bàn tán.
-Cô Chú muốn tôi đưa lên đây để thuyết phục Ni Cô cùng di tản với gia đình.
-Thưa Bố Mẹ, thưa anh, con đã an trú cửa Phật rồi thì đâu có gì mà phải di tản?
-Ni Cô chưa hiểu bản chất của Cộng Sản đâu. Ni Cô nên nghe lời, về nhà cùng đi với gia đình; gia đình không bao giờ ra đi mà để Ni Cô ở lại.
Quay sang Bố, Ni Cô giải thích:
-Thưa Bố Mẹ, người đã thành tâm xuất gia thì không bao giờ chọn sự sung sướng cho bản thân mà chỉ cầu an vui cho tha nhân. Con chỉ muốn sớm tối nương tựa cửa Phật và phát huy đạo pháp.
Giọng Bố rất buồn:
-Nếu Ni Cô muốn phát huy đạo pháp thì Ni Cô nên đi với gia đình; dù gia đình cũng chưa biết sẽ đi đâu và đến đâu. Nhưng gia đình – nhất là các em trai của Ni Cô – không thể nào ở lại với Cộng Sản. Đến bất cứ đâu, Ni Cô cũng có thể rao truyền về Phật Giáo để cảm hóa con người.
-Thưa Bố, nếu muốn cảm hóa con người một cách thiết thực thì con nên ở lại Việt Nam để cảm hóa những kẻ ác – những kẻ đã tạo ra không biết bao nhiêu đau thương cho dân tộc Việt Nam!
Rất ngạc nhiên trước sự suy luận rất hiện thực của Ni Cô, nhưng Bố vẫn thuyết phục:
– Ni Cô nên nhớ, ở ngoại quốc rất ít người theo đạo Phật; Ni Cô nên ra đi để có cơ hội giúp người ngoại quốc hiểu về Phật Giáo.
-Thưa Bố, con nghĩ, trên thế giới, bất cứ người nước nào cũng có nhiều thiện tâm hơn người Việt mình; thế thì người ngoại quốc không cần con phải đem đạo lý của Đức Phật ra giảng cho họ.
-Lý do nào Ni Cô lại nói như thế?
-Bố và anh Luân nghĩ xem, trên thế giới có quân đội nào xua quân tàn sát gần như trọn vẹn dân chúng của một thành phố lớn, như Huế, năm 1968? Có quân đội nào mỗi ngày pháo kích cả ngàn quả đại pháo hoặc hỏa tiễn 120 ly vào các thành phố đông dân cư, như Bình Long, An Lộc rồi pháo kích ngay vào trường học Cai Lậy và bệnh viện Long An? Có quân đội nào pháo kích chính xác và điên cuồng vào đoàn dân chạy loạn từ Quảng Trị vào Huế năm 1972 và từ Đà Nẵng sang Tiên Sa vào tháng cuối Ba năm 1975? Có quân đội nào đưa ra chiến trường thanh niên 15, 16 tuổi rồi buộc những thanh niên này phải thực hiện chiếc thuật biển người? Có quân đội nào, ngay sau khi cưỡng chiếm được mục tiêu, đã xua đuổi tất cả thương binh ra khỏi những quân y viện của “bên thua cuộc”? Câu giải đáp là: Chỉ có Quân Đội Cộng Sản Bắc Việt mới vô nhân tính khi thực hiện những hành động tàn ác đó. Những hành động dã man như thế không thể gọi là chiến đấu.
-Nếu Ni Cô hiểu được như thế thì Ni Cô càng nên ra đi, xa lánh kẻ ác. Nơi môi trường mới Ni Cô cũng vẫn có thể hoành dương đạo pháp.
-Thưa Bố, nếu cần phải dùng tín ngưỡng để cảm hóa con người thì chúng ta nên dùng tín ngưỡng để cảm hóa kẻ ác trước; và kẻ ác cần phải cảm hóa chính là những người Cộng Sản Việt Nam; vì họ đã bị đầu độc, bị cổ xúy, rồi dùng vũ khí của Nga, Tàu và tất cả mọi thủ đoạn để giết người miền Nam với chủ đích cướp đi phần đất mà chính những kẻ ác đó đã đồng ý phân chia từ năm 1954!
Luân có vẻ sốt ruột:
-Chúng ta không có thì giờ để tranh luận. Ni Cô nên nghe lời Cô Chú kẻo Cô Chú buồn.
-Thưa Bố Mẹ, con xin lỗi Bố Mẹ. Bố Mẹ cho con ở lại để con được thực hiện hạnh nguyện của con.
Đến lúc này, không thể kềm giữ tình cảm được nữa, Mẹ khóc ròng:
-Con ơi! Bố Mẹ chỉ có con là con gái, không hiểu vì lý do gì con đi tu, Mẹ đã đau buồn nhiều lắm rồi! Bây giờ con lại đành đoạn ở lại thì Mẹ sống sao nỗi, con ơi!
… Kể đến đây, Luân cảm thấy đau lòng quá, vội nhìn xuống để Thạch không thấy đôi mắt ửng đỏ của Luân. Cả hai im lặng rất lâu. Nhìn vùng biển lao xao phía xa của trại tỵ nạn Orote Point, Guam, tâm trí của Thạch quay cuồng. Cảm giác hụt hẩng và trạng thái chối bỏ quyện vào nhau khiến Thạch cảm thấy nhức đầu và gần như ngộp thở! Cảm giác này cũng tương tự như buổi sáng năm nào, tại quân y viện Pleiku, Thach tỉnh lại, nhận ra chân trái của chàng không còn nữa!
Luân hỏi:
-Thạch! Lần cuối cùng mày thấy hoặc gặp Thủy Ngọc là lúc nào?
Thạch kể lại diễn tiến buổi văn nghệ liên trường. Luân thở dài:
-Thế thì tao hiểu rồi. Tội nghiệp em tao! Nó giữ kín niềm đau, gia đình không ai biết. Tại sao mày bị thương mà mày cũng giấu tao?
-Vì mày biết thì Thủy Ngọc biết.
-Nếu thế thì mày tham dự văn nghệ liên trường để làm gì?
-Tình cờ ghé thăm trường tao mới biết có buổi văn nghệ đó. Tao suy nghĩ và muốn đích thân tao giải bày nỗi niềm của tao với Thủy Ngọc chứ tao không muốn người khác mách lại.
Bất ngờ nghe Luân vô tình nói tên ngôi chùa mà Thủy Ngọc đang tu, tâm trạng của Thạch rối bời và trí óc quay cuồng! Sau khi bằng lòng với quyết định của mình, Thạch bảo:
-Thôi, tao đi!
-Đang sắp hàng lấy phần ăn, sắp tới phiên rồi, sao mày lại bỏ đi?
Thạch vẫy tay, khập khểnh bước đi…
******
Nhờ số tiền những người di tản biếu trước khi Thạch trở về trên thương thuyền Việt Nam Thương Tín – khi Thạch bị giam tại Nha Trang, ban quản giáo tịch thu hơn một nửa – Thạch đi xe đò về Saigon, đến ngay ngôi chùa mà Luân đã vô tình nói tên.
Sư Cô trù trì cho Thạch biết, lý do Ni Cô Diệu Thu xin hoàn tục là vì Bố Mẹ của Ni Cô bị “cách mạng” cho đi kinh tế mới. Ni Cô biết Bố Mẹ không quen lao động cực nhọc, Ni Cô muốn nhận lãnh trách nhiệm của người con bất hiếu! Bao giờ Bố Mẹ quy tiên, Ni Cô sẽ trở lại con đường tầm đạo!
Đến nhà Thủy Ngọc, chỉ thấy những kẻ quê mùa, đen đúa, còi cọc và hầu như ai cũng có đôi má gồ, răng vẩu, đầy cáu bẩn, đôi mắt láo liêng như rình rập ai, như sợ sệt điều gì và phát ngôn the thé thứ tiếng Bắc rất lạ tai, Thạch than thầm: “Những kẻ này mà thắng mình được sao, Trời!”
Đến nhà Bố Mẹ của Luân, Thạch cũng chỉ thấy những người của “bên thắng cuộc”!
Thạch về nhà Cha Mẹ. Một người đàn ông – cũng da xanh mét, răng hô, má gồ và đôi mắt láo liêng như sợ sệt, như theo dõi ai – bước ra, hỏi:
-Anh cần gì?
-Cách nay không lâu, tôi ngụ tại ngôi nhà này.
-Ô, thế anh “nà” con của ông Trưởng Ty…
Thạch đáp nhanh, không để ông này nói tiếp:
-Vâng. Tôi là con cả.
-Thế anh “nà” đại úy Biệt Động Quân, đúng không?
-Vâng.
-Tôi được “nhà nước” cấp cho ngôi nhà này, ngoài ra chúng tôi không biết gì cả.
Thạch thầm nghĩ “Chiến thắng để được như thế này hèn chi ‘cha con nó’ mới thề ‘sinh Bắc tử Nam’!” rồi hỏi:
-Thế ông biết Ba Má tôi dời đi đâu không?
-Gia đình tôi mới dọn vào nhà này khoảng vài tháng thôi nên tôi chả biết.
Thạch cảm ơn ông rồi bùi ngùi quay đi.
Lang thang, đau khổ và lạc lõng ngay trên Quê Hương mà chàng đã để lại một phần thân thể, Thạch bỗng nghe tiếng hát nghẹn ngào của một thương binh “Ngụy” đang ngồi xin tiền bên gốc cây: “…. Chạnh lòng tìm người em gái cũ, em tôi đã đi phương nào? … Giờ này tìm đâu hình bóng cũ, em ơi! Em đi về đâu?… Để rồi một năm nơi biên cương dấn bước thân nơi sa trường. Ngày thì tìm vui bên tiếng súng khi đêm anh vui với đànDù mộng tàn phai trong thương đau…”(3) 
Tiếng ca ai oán của anh thương binh như cơn nước lũ cuốn đi tất cả sự kiên nghị, bản tính can cường và ý chí phấn đấu của Thạch! Thạch hơi cúi đầu, bậm môi thật chặt rồi kín đáo đưa tay quẹt nước mắt!…
ĐIỆP MỸ LINH
(1) và (2) Dư Âm của Nguyễn Văn Tý
(3) Chiều Hành Quân của Lam Phương
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H


 
Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H.
ĐIỆP MỸ LINH

Thấy một thanh niên trông quen quen, mặc quân phục Hải Quân, đi ngược chiều với mình, Thạch chậm Vespa lại. Nhận ra người bạn thân hồi trước học trường Hưng Đạo rồi sau cùng vào Đại Học Khoa Học với chàng, Thạch thắng Vespa, reo lên:
-Luân! Phải Luân không?
Chàng Hải Quân ngạc nhiên:
-Ủa, Thạch! Mày làm gì mà mặc đồ Biệt Động Quân “ngon” vậy?
-Tao bị động viên vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức; ra trường, xin về Biệt Động Quân. Còn mày, đi Hải Quân hồi nào? Tao nhớ hình như mày nhỏ tuổi hơn tao mà.
-Ừ, tao chưa bị động viên; nhưng thấy bạn bè nay đứa này “lên đường”, mai đứa kia bị thương, mốt đứa khác tử trận, tao chịu không được, tình nguyện vào Hải Quân.
-Hải Quân mà giờ này lang thang ở đây?
-Chiến hạm vừa về nghỉ bến, tao muốn ghé thăm bà Cô để nhờ nhỏ em chở giùm về nhà Bố Mẹ tao. Còn mày?
-Tao đi phép về thăm gia đình. Mày đi đâu, tao chở mày đi?
Vừa “phóng” lên phía sau Vespa Luân vừa nói:
-Cảm ơn mày. Cô tao ở gần đây thôi.
-Có phải bà Cô mà hồi trước tụi mình thường tới chơi rồi đàn hát “lung tung beng” hay không?
-Đúng rồi.
-Vậy thì tao nhớ rồi.
Thạch chợt nhớ Cô có người con gái đàn và hát rất hay, nhưng chàng không nhớ tên; vì lúc đó cô bé còn nhỏ, chưa gợi được sự chú ý của thanh niên.
Thạch dừng Vespa trước nhà Cô. Luân bước xuống, chưa kịp cảm ơn Thạch thì Thủy Ngọc – con gái của Cô – đi học vừa về. Thủy Ngọc vui mừng chào Luân và Thạch rồi đi vào nhà. Ánh mắt của Thạch không rời Thủy Ngọc.
Thấy ánh mắt của Thạch, Luân hơi phân vân; vì biết Chú của chàng không thích nhà binh – nhất là sĩ quan thuộc các quân binh chủng “thứ dữ” – vì Ông ngại con gái của Ông sẽ…Nhưng nếu, ngay bây giờ, Luân từ giả người bạn thân từng học chung, đi biểu tình chung, từng “văn nghệ văn gừng” với nhau trên các sân trường đại học thì Luân không đành!
May quá, nhờ Thủy Ngọc cho biết có Luân và Thạch đến thăm, Cô bước ra cửa:
-Luân! Sao không đưa bạn vô nhà chơi, con?
Luân chưa kịp đáp, Thạch đã vội dựng Vespa, cúi chào:
-Dạ, kính chào Cô. Lâu rồi mà Cô vẫn nhận ra cháu.
-Cháu bận đồ lính thấy khác thật, nhưng Cô vẫn nhận ra. Vô chơi, cháu.
Từ hôm đó, mỗi ngày Thạch đều đến Bến Bạch Đằng, lên chiến hạm HQ505, rủ Luân đi thăm Cô. Như dạo còn đi học, mỗi khi đến nhà Cô, Thạch thường đệm Guitar, Luân đàn Piano, Thủy Ngọc đàn Violon; đôi khi ba người thay đổi nhạc cụ hoặc cùng hát bên nhau.
Sau đó, mỗi khi về phép, Thạch đều đến nhà Cô để thăm Thủy Ngọc. Thời gian này Thủy Ngọc đã trở thành một thiếu nữ cao, với những đường nét rất cân đối cùng gương mặt xinh đẹp, nhân hậu và đôi mắt nâu thơ dại. Chính nét thơ dại trong đôi mắt nâu nồng nàn và khuôn mặt phản phất vẻ đẹp Tây Phương cùng với tiếng đàn, tiếng hát của Thủy Ngọc mà rất nhiều chàng trai say mê, theo đuổi nàng.
Thạch thầm tiếc là thời gian trước đây, cùng Luân đến thăm Cô và biết Thủy Ngọc học cùng trường, Thạch đã không hề để ý đến cô bé con, người còn “suôn đuột”, “chưa có ngực”. Bây giờ, mỗi lần về phép là mỗi lần hồi hộp, vì Thạch không biết Thủy Ngọc đã bị ai chinh phục hay chưa!
Riêng Thủy Ngọc, dù biết Bố không thích nàng giao thiệp với nhà binh, nàng cũng vẫn bị cuốn hút vì bộ quân phục thẳng nếp, mái tóc cắt ngắn, làn da sạm nắng, dáng đi hiên ngang, đôi mắt nhìn thẳng và thái độ tự tin.
Tình yêu trong lòng Thủy Ngọc và Thạch âm thầm nảy sinh cho nên chàng và nàng thường chọn những tình khúc có lời ca ướt lệ để cùng đàn, hát bên nhau.
Những khi vắng Thạch, Thủy Ngọc thường thẩn thơ một mình, nét mặt buồn buồn và đôi mắt xa xăm như mong ngóng một điều gì! Khi Thạch về phép, ghé thăm, Thủy Ngọc tươi cười, líu lo như chú chim non vừa sổ lồng.
Mỗi khi thấy sự thay đổi thái độ nhanh chóng của Thủy Ngọc, Bố Mẹ của nàng tự hỏi, tại sao Thủy Ngọc không vui tươi, hớn hở đối với những thanh niên khác, có bằng cấp và địa vị cao, đang cố chinh phục nàng mà nàng lại chỉ vui tươi hớn hở với Thạch thôi?
Không những thế, khi Thạch và Thủy Ngọc cùng đàn và hát bên nhau, Bố Mẹ của Thủy Ngọc để ý: Dư Âm là tình khúc Thủy Ngọc và Thạch cùng đàn và hát nhiều nhất; kế đến là Love Me Tender. Bố Mẹ của Thủy Ngọc không hiểu tiếng Anh, nhưng động từ “love” thì Bố của Thủy Ngọc biết. Thế là Bố chỉ cần nhớ chữ “tender” rồi phiên âm ra tiếng Việt, hỏi Luân. Luân vô tình và ngay thật cho Bố biết đó là tựa một tình khúc của Elvis Presley. Bố bảo Luân dịch lời ca ra tiếng Việt.
Sau khi hiểu rõ lời ca, Bố Mẹ trực tiếp cho Thạch hay rằng Ông Bà không cho phép Thủy Ngọc giao thiệp với Thạch nữa!
******
Nơi hậu trường, cách sân khấu bằng một tấm màn dày, thấy Thủy Ngọc đang hóa trang cho màn trình diễn thời trang, thái độ rất vui và tự tin, Thầy phụ trách văn nghệ hỏi:
-Thủy Ngọc! Sẵn sàng cả rồi chứ?
-Dạ, thưa Thầy…
Vừa nói ngang đó, Thủy Ngọc chợt dừng lại; vì giọng Tenor của ai nghe quen quen, vang lên từ bên kia bức màn ngăn cách sân khấu và hậu trường: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ. Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ…”(1) Thủy Ngọc nhíu mày, đứng lặng như pho tượng! Nhưng trong tiềm thức, tình yêu nàng âm thầm dành cho Thạch bỗng cuồn cuộn trổi dậy như cuồn phong!
Riêng Thạch, sau khi bị Bố Mẹ của Thủy Ngọc yêu cầu đừng liên lạc với Thủy Ngọc nữa, Thạch rất buồn và thất vọng! Những lúc hành quân truy kích hoặc trực thăng vận nhảy ngay trên đầu địch, Thạch quên mất nỗi buồn; nhưng khi rảnh rỗi hoặc nghe ai đàn, hát một nhạc phẩm mà chàng và Thủy Ngọc thường đàn và hát bên nhau thì nỗi buồn và sự thất vọng kéo về, đè nặng trong tim! Giờ đây, đang diễn đạt tất cả nỗi niềm của tác giả và cũng là niềm đau của chàng, giọng Thạch trở nên tha thiết vô cùng: “…Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời….Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ…Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu năm tháng mong chờ…”(2)
Mấy năm qua, những kỷ niệm khi Thạch và nàng cùng đàn hát bên nhau tưởng đã chìm vào dĩ vãng; nhưng bây giờ, tiếng hát cao vút của ai bên kia tấm màn lại làm cho trái tim của Thủy Ngọc thổn thức âm thầm – nhưng rất dữ dội!
Thái độ của Thủy Ngọc làm Thầy phụ trách văn nghệ thắc mắc:
-Thủy Ngọc! Chị bình an chứ?
-Dạ…thưa Thầy, ai…ai… đang hát ngoài đó, thưa Thầy?
-Nhận không ra giọng à? Thạch đó. Thạch hồi trước cũng trong ban văn nghệ với Luân và Thủy Ngọc đó, nhớ không?
-Dạ thưa Thầy, hôm tổng dợt, sao con không thấy màn đơn ca của anh Thạch trong chương trình?
-Hôm qua Thạch ghé thăm trường, biết trường có buổi văn nghệ đêm nay, Thạch xin hát một bài. Nhận thấy Thạch là học trò cũ, năng khiếu văn nghệ cao, lại lên đường tòng quân, tôi cảm phục và chấp thuận. Thôi, chị chuẩn bị đi, sắp đến phiên chị đó.
Nói xong, Thầy quay đi. Thủy Ngọc thở dài vừa khi Thạch chấm dứt màn đơn ca trong tiếng vỗ tay vang dội; rồi nhiều tiếng “bis…bis…” vang lên. Thạch nói vào micro:
-Xin cảm ơn quý vị, quý Thầy Cô và các bạn. Tiếp theo, Thạch xin trình bày tình khúc My Heart Will Go On của Celine Dion
Lại tiếng vỗ tay. Thạch dạo đàn rồi “bắt” vào: “Every night in my dreams, I see you, I feel you that is how I know you go on. Far across the distance and spaces between us you have come to show you go on…” Theo giọng hát buồn buồn của chính mình, Thạch nhớ những buổi chiều im vắng, sau khi hành quân trở về, chàng thường ôm Guitar, vừa đàn vừa hát vừa nhìn dòng suối cạn phía xa trong khi hoàng hôn lũ lược kéo về phủ xuống núi rừng thâm u.
Nơi vùng núi rừng thâm u đó, mỗi khi đoàn quân dừng chân, Thạch thường chạnh lòng nghĩ đến phận đời của chàng và của những thanh niên cùng thế hệ với chàng – ở miền Nam – rời gia đình, xa người thân và bạn hữu, phải hành quân liên miên để chống trả những đợt tấn công ác liệt của Bắc quân xâm lược!
Suốt thời gian được tăng phái, Thạch không thể nhớ được bao nhiêu lần đơn vị chiến lược này bị “tiền pháo, hậu xung” và bị tấn công bằng chiến thuật “biển người”. Thạch chỉ nhớ lần cuối cùng, để giải tỏa áp lực của Bắc quân quanh đơn vị chiến lược này, đơn vị của chàng được lệnh tham dự cuộc hành quân hỗn hợp với một đơn vị Bộ Binh, vào một ngày mưa to gió lớn, có thiết giáp yểm trợ để càn quét các đơn vị Cộng Sản Việt Nam từ Bắc xâm nhập.
Chính trong cuộc hành quân quy mô này Thạch bị Bắc quân dùng súng CKC bắn sẻ, khi Thạch đang khom người điều quân qua ống liên hợp. Viên đạn trúng chân trái của Thạch. Thạch và Tiểu Đoàn Trưởng Thiết Giáp xin trực thăng tải thương; nhưng thời tiết quá tệ và cũng vì súng phòng không của địch bắn lên xối xả, trực thăng không thể “bốc” thương binh!
Khi được đưa về quân y viện, vết thương đã sưng to và làm độc!… Nhớ đến đây, giọng Thạch trở nên nghẹn ngào, đầy u uất:“…And my heart will go on and on. Love can touch us one time and last for a lifetime and never let go till we’re gone…”
Trong khi nén xúc động, cố kềm nước mắt để Thầy và bạn khỏi biết, Thủy Ngọc chợt nghe các nam sinh “xầm xì”:
-Anh Thạch “hết sẩy”! Ảnh “ngon” thiệt!
-Tội nghiệp ảnh quá!
Hai tiếng “tội nghiệp” khiến Thủy Ngọc tò mò. Bước đến bên trái sân khấu, nhìn ra, Thủy Ngọc ôm ngực, tưởng như trái tim của nàng đã thoát khỏi lồng ngực! Trước mắt nàng, Thạch – trong quân phục Biệt Động Quân, mũ nâu vắt hờ vào cầu vai trái – đang ngồi trên ghế, chiếc nạn gỗ dựa thành ghế, hai tay của Thạch ôm Guitar. Thạch tựa thùng Guitar lên bắp vế chân phải và đệm theo tiếng ca não nùng của chàng. Như không tin vào mắt mình, Thủy Ngọc cố thay đổi vị thế nhưng nàng cũng chỉ thấy một chiếc giày trận bên chân phải của Thạch thôi!
Trong khi Thủy Ngọc run rẩy, nước mắt nhạt nhòa thì Thạch hát đến câu cuối: “…We’ll stay forever this way. You are safe in my heart. And my heart will go on and on.” Thạch cúi chào. Cả hội trường vừa vỗ tay vừa đứng lên.
Thủy Ngọc hy vọng rằng Thạch sẽ vào hậu trường bằng cánh trái để nàng có dịp trực diện với chàng; nhưng, không hiểu vì vô tình hay cố ý, Thạch rời sân khấu bằng cánh phải. Thủy Ngọc ôm mặt, khóc như mưa!
Vài cô bạn cho Thầy phụ trách văn nghệ biết sự việc đang xãy ra cho Thủy Ngọc. Thầy đến, đưa Thủy Ngọc ra sau tấm màn:
-Tại sao chị lại xúc động quá độ như vậy?
Tự nhủ, sẽ không để niềm đau thương của riêng mình ảnh hưởng đến buổi văn nghệ mà toàn trường đã dày công tập luyện, Thủy Ngọc trở nên bình tĩnh một cách lạ thường:
-Thưa Thầy, con xin lỗi. Như Thầy biết, anh Thạch là bạn cùng lớp với anh Luân của con. Anh thạch thường đến nhà con hòa đàn với anh Luân và con. Bây giờ, bất ngờ thấy anh Thạch như thế con chịu không được!
-Tôi hiểu. Chị nghĩ chị có vững tinh thần để giữ tiết mục độc tấu Violon hay không?
-Dạ, thưa Thầy…
Bất ngờ một ý nghĩ thoáng qua, Thủy Ngọc tiếp:
-Thầy cho con xin một đặc ân, được không ạ?
-Vâng, chị cứ nói.
-Thưa Thầy, con xin Thầy cho con được đổi mục độc tấu bằng mục đơn ca.
Đã từng nghe Thủy Ngọc hát nhiều lần trong những buổi văn nghệ trước đây, Thầy gật đầu:
-Vâng. Chị cho người giới thiệu chương trình biết sự thay đổi này và cho anh đàn Guitar biết “tông” và nhịp điệu của bản nhạc, nhé!
-Dạ. Con xin cảm ơn Thầy.
Sau khi nghe người điều khiển chương trình giới thiệu Thủy Ngọc sẽ trình bày ca khúc Kỷ Vật Cho Em của Phạm Duy, Thạch cảm thấy bồi hồi, xúc động! Nhìn dáng Thủy Ngọc thướt tha bước ra, cúi chào, đến sau micro rồi kéo micro cao hơn, Thạch tự hỏi, không biết tình cờ Thủy Ngọc chọn ca khúc này hay là…Thạch thở dài, lắc đầu, không muốn nghĩ tiếp.
Dạo phân đoạn đầu xong, người đàn Guitar “rải” một tràng hợp âm và Thủy Ngọc “bắt” vào: “Em hỏi anh. Em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ. Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân…” Nét mặt thống khổ, hai hàng nước mắt tuôn dài cùng tiếng ca nức nỡ của Thủy Ngọc khiến tất cả khán giả bàng hoàng đến sửng sờ!
Đến đoạn điệp khúc, giọng Soprano của Thủy Ngọc vút cao: “…Anh trở về nhìn nhau xa lạ. Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen. Cố quên đi một lần gian dối, anh ơi!…”. Một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân, chống nạn, khập khểnh rời hội trường; vì trái tim của quân nhân này không thể nhận thêm bất cứ sự đau đớn, dày vò nào nữa!…
******
Thấy Luân cùng với Bố Mẹ đến thăm, Ni Cô Diệu Thu rất ngạc nhiên; càng ngạc nhiên hơn nữa khi Ni Cô thấy thái độ của Luân rất bối rối, bồn chồn và Bố Mẹ thì lo âu, buồn bả, chứ không bình thản như những lần Bố Mẹ đến thăm nàng trước đây. Luân nhập đề ngay:
-Ni Cô có theo dõi thời sự hay không?
-Dạ không. Nhưng em nghe nhiều Phật tử bàn tán.
-Cô Chú muốn tôi đưa lên đây để thuyết phục Ni Cô cùng di tản với gia đình.
-Thưa Bố Mẹ, thưa anh, con đã an trú cửa Phật rồi thì đâu có gì mà phải di tản?
-Ni Cô chưa hiểu bản chất của Cộng Sản đâu. Ni Cô nên nghe lời, về nhà cùng đi với gia đình; gia đình không bao giờ ra đi mà để Ni Cô ở lại.
Quay sang Bố, Ni Cô giải thích:
-Thưa Bố Mẹ, người đã thành tâm xuất gia thì không bao giờ chọn sự sung sướng cho bản thân mà chỉ cầu an vui cho tha nhân. Con chỉ muốn sớm tối nương tựa cửa Phật và phát huy đạo pháp.
Giọng Bố rất buồn:
-Nếu Ni Cô muốn phát huy đạo pháp thì Ni Cô nên đi với gia đình; dù gia đình cũng chưa biết sẽ đi đâu và đến đâu. Nhưng gia đình – nhất là các em trai của Ni Cô – không thể nào ở lại với Cộng Sản. Đến bất cứ đâu, Ni Cô cũng có thể rao truyền về Phật Giáo để cảm hóa con người.
-Thưa Bố, nếu muốn cảm hóa con người một cách thiết thực thì con nên ở lại Việt Nam để cảm hóa những kẻ ác – những kẻ đã tạo ra không biết bao nhiêu đau thương cho dân tộc Việt Nam!
Rất ngạc nhiên trước sự suy luận rất hiện thực của Ni Cô, nhưng Bố vẫn thuyết phục:
– Ni Cô nên nhớ, ở ngoại quốc rất ít người theo đạo Phật; Ni Cô nên ra đi để có cơ hội giúp người ngoại quốc hiểu về Phật Giáo.
-Thưa Bố, con nghĩ, trên thế giới, bất cứ người nước nào cũng có nhiều thiện tâm hơn người Việt mình; thế thì người ngoại quốc không cần con phải đem đạo lý của Đức Phật ra giảng cho họ.
-Lý do nào Ni Cô lại nói như thế?
-Bố và anh Luân nghĩ xem, trên thế giới có quân đội nào xua quân tàn sát gần như trọn vẹn dân chúng của một thành phố lớn, như Huế, năm 1968? Có quân đội nào mỗi ngày pháo kích cả ngàn quả đại pháo hoặc hỏa tiễn 120 ly vào các thành phố đông dân cư, như Bình Long, An Lộc rồi pháo kích ngay vào trường học Cai Lậy và bệnh viện Long An? Có quân đội nào pháo kích chính xác và điên cuồng vào đoàn dân chạy loạn từ Quảng Trị vào Huế năm 1972 và từ Đà Nẵng sang Tiên Sa vào tháng cuối Ba năm 1975? Có quân đội nào đưa ra chiến trường thanh niên 15, 16 tuổi rồi buộc những thanh niên này phải thực hiện chiếc thuật biển người? Có quân đội nào, ngay sau khi cưỡng chiếm được mục tiêu, đã xua đuổi tất cả thương binh ra khỏi những quân y viện của “bên thua cuộc”? Câu giải đáp là: Chỉ có Quân Đội Cộng Sản Bắc Việt mới vô nhân tính khi thực hiện những hành động tàn ác đó. Những hành động dã man như thế không thể gọi là chiến đấu.
-Nếu Ni Cô hiểu được như thế thì Ni Cô càng nên ra đi, xa lánh kẻ ác. Nơi môi trường mới Ni Cô cũng vẫn có thể hoành dương đạo pháp.
-Thưa Bố, nếu cần phải dùng tín ngưỡng để cảm hóa con người thì chúng ta nên dùng tín ngưỡng để cảm hóa kẻ ác trước; và kẻ ác cần phải cảm hóa chính là những người Cộng Sản Việt Nam; vì họ đã bị đầu độc, bị cổ xúy, rồi dùng vũ khí của Nga, Tàu và tất cả mọi thủ đoạn để giết người miền Nam với chủ đích cướp đi phần đất mà chính những kẻ ác đó đã đồng ý phân chia từ năm 1954!
Luân có vẻ sốt ruột:
-Chúng ta không có thì giờ để tranh luận. Ni Cô nên nghe lời Cô Chú kẻo Cô Chú buồn.
-Thưa Bố Mẹ, con xin lỗi Bố Mẹ. Bố Mẹ cho con ở lại để con được thực hiện hạnh nguyện của con.
Đến lúc này, không thể kềm giữ tình cảm được nữa, Mẹ khóc ròng:
-Con ơi! Bố Mẹ chỉ có con là con gái, không hiểu vì lý do gì con đi tu, Mẹ đã đau buồn nhiều lắm rồi! Bây giờ con lại đành đoạn ở lại thì Mẹ sống sao nỗi, con ơi!
… Kể đến đây, Luân cảm thấy đau lòng quá, vội nhìn xuống để Thạch không thấy đôi mắt ửng đỏ của Luân. Cả hai im lặng rất lâu. Nhìn vùng biển lao xao phía xa của trại tỵ nạn Orote Point, Guam, tâm trí của Thạch quay cuồng. Cảm giác hụt hẩng và trạng thái chối bỏ quyện vào nhau khiến Thạch cảm thấy nhức đầu và gần như ngộp thở! Cảm giác này cũng tương tự như buổi sáng năm nào, tại quân y viện Pleiku, Thach tỉnh lại, nhận ra chân trái của chàng không còn nữa!
Luân hỏi:
-Thạch! Lần cuối cùng mày thấy hoặc gặp Thủy Ngọc là lúc nào?
Thạch kể lại diễn tiến buổi văn nghệ liên trường. Luân thở dài:
-Thế thì tao hiểu rồi. Tội nghiệp em tao! Nó giữ kín niềm đau, gia đình không ai biết. Tại sao mày bị thương mà mày cũng giấu tao?
-Vì mày biết thì Thủy Ngọc biết.
-Nếu thế thì mày tham dự văn nghệ liên trường để làm gì?
-Tình cờ ghé thăm trường tao mới biết có buổi văn nghệ đó. Tao suy nghĩ và muốn đích thân tao giải bày nỗi niềm của tao với Thủy Ngọc chứ tao không muốn người khác mách lại.
Bất ngờ nghe Luân vô tình nói tên ngôi chùa mà Thủy Ngọc đang tu, tâm trạng của Thạch rối bời và trí óc quay cuồng! Sau khi bằng lòng với quyết định của mình, Thạch bảo:
-Thôi, tao đi!
-Đang sắp hàng lấy phần ăn, sắp tới phiên rồi, sao mày lại bỏ đi?
Thạch vẫy tay, khập khểnh bước đi…
******
Nhờ số tiền những người di tản biếu trước khi Thạch trở về trên thương thuyền Việt Nam Thương Tín – khi Thạch bị giam tại Nha Trang, ban quản giáo tịch thu hơn một nửa – Thạch đi xe đò về Saigon, đến ngay ngôi chùa mà Luân đã vô tình nói tên.
Sư Cô trù trì cho Thạch biết, lý do Ni Cô Diệu Thu xin hoàn tục là vì Bố Mẹ của Ni Cô bị “cách mạng” cho đi kinh tế mới. Ni Cô biết Bố Mẹ không quen lao động cực nhọc, Ni Cô muốn nhận lãnh trách nhiệm của người con bất hiếu! Bao giờ Bố Mẹ quy tiên, Ni Cô sẽ trở lại con đường tầm đạo!
Đến nhà Thủy Ngọc, chỉ thấy những kẻ quê mùa, đen đúa, còi cọc và hầu như ai cũng có đôi má gồ, răng vẩu, đầy cáu bẩn, đôi mắt láo liêng như rình rập ai, như sợ sệt điều gì và phát ngôn the thé thứ tiếng Bắc rất lạ tai, Thạch than thầm: “Những kẻ này mà thắng mình được sao, Trời!”
Đến nhà Bố Mẹ của Luân, Thạch cũng chỉ thấy những người của “bên thắng cuộc”!
Thạch về nhà Cha Mẹ. Một người đàn ông – cũng da xanh mét, răng hô, má gồ và đôi mắt láo liêng như sợ sệt, như theo dõi ai – bước ra, hỏi:
-Anh cần gì?
-Cách nay không lâu, tôi ngụ tại ngôi nhà này.
-Ô, thế anh “nà” con của ông Trưởng Ty…
Thạch đáp nhanh, không để ông này nói tiếp:
-Vâng. Tôi là con cả.
-Thế anh “nà” đại úy Biệt Động Quân, đúng không?
-Vâng.
-Tôi được “nhà nước” cấp cho ngôi nhà này, ngoài ra chúng tôi không biết gì cả.
Thạch thầm nghĩ “Chiến thắng để được như thế này hèn chi ‘cha con nó’ mới thề ‘sinh Bắc tử Nam’!” rồi hỏi:
-Thế ông biết Ba Má tôi dời đi đâu không?
-Gia đình tôi mới dọn vào nhà này khoảng vài tháng thôi nên tôi chả biết.
Thạch cảm ơn ông rồi bùi ngùi quay đi.
Lang thang, đau khổ và lạc lõng ngay trên Quê Hương mà chàng đã để lại một phần thân thể, Thạch bỗng nghe tiếng hát nghẹn ngào của một thương binh “Ngụy” đang ngồi xin tiền bên gốc cây: “…. Chạnh lòng tìm người em gái cũ, em tôi đã đi phương nào? … Giờ này tìm đâu hình bóng cũ, em ơi! Em đi về đâu?… Để rồi một năm nơi biên cương dấn bước thân nơi sa trường. Ngày thì tìm vui bên tiếng súng khi đêm anh vui với đànDù mộng tàn phai trong thương đau…”(3) 
Tiếng ca ai oán của anh thương binh như cơn nước lũ cuốn đi tất cả sự kiên nghị, bản tính can cường và ý chí phấn đấu của Thạch! Thạch hơi cúi đầu, bậm môi thật chặt rồi kín đáo đưa tay quẹt nước mắt!…
ĐIỆP MỸ LINH
(1) và (2) Dư Âm của Nguyễn Văn Tý
(3) Chiều Hành Quân của Lam Phương
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Monday, December 25, 2017

Nhạc Pháp lời Việt : Giai thoại Ông Noel Dễ Thương




 
TẠP CHÍ ÂM NHẠC

Nhạc Pháp lời Việt : Giai thoại Ông Noel Dễ Thương

Tuấn Thảo
Nhạc Pháp lời Việt : Giai thoại Ông Noel Dễ Thương

Petit Papa Noël là ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng nhất của PhápREUTERS /Kacper Pempel

Mỗi lần nhắc đến Giáng Sinh, người Pháp nghĩ tới ngay ca khúc Petit Papa Noël. Có thể nói đây là ca khúc nổi tiếng nhất trong số các sáng tác về chủ đề Giáng Sinh bằng tiếng Pháp. Ăn khách vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, Petit Papa Noël trong vòng 70 năm qua vẫn gắn liền với giọng ca tenor Tino Rossi. Bài này từng được chuyển sang lời Việt với tựa đề "Ông Noel Dễ Thương".

Trong nguyên tác, bài hát Petit Papa Noël đã được viết từ đầu những năm 1940, tức là trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Nhạc sĩ Henri Martinet là người đã soạn ra giai điệu này (lời đầu tiên của tác giả Xavier Lemercier) cho một vở nhạc kịch, kể lại câu chuyện của một em bé không vòi quà nhân mùa Giáng Sinh mà chỉ nguyện cầu ông già Noël đem người bố bị bắt làm tù bình từ Đức trở về Pháp. Thế nhưng, phép lạ lại không nhiệm mầu. Vở nhạc kịch hoàn toàn gặp thất bại khi được biểu diễn tại nhà hát Odéon ở Marseille. Ca khúc Petit Papa Noël bị bỏ trong ngăn kéo khóa lại, dần dần chìm vào quên lãng.

Mãi tới cuối năm 1946 tức là sau thời chiến, khi danh ca tenor Tino Rossi quay bộ phim ca nhạc Định Mệnh (Destins của đạo diễn Richard Pottier), thì một cách tình cờ ngẫu nhiên ông mới gặp bài hát này. Trong kịch bản ban đầu, Tino Rossi dự trù ghi âm một bản nhạc Phúc Âm với một dàn đồng ca thiếu nhi, nhưng dự án này lại bị hủy bỏ vào giờ chót. Nhà sản xuất Émile Audiffred trong đoàn làm phim bí quá không biết phải làm gì, mới sực nhớ lại ca khúc Petit Papa Noël bị bỏ quên từ vài năm trước của nhạc sĩ Henri Martinet. Chỉ có điều là nội dung bài hát viết trong thời kỳ chiến tranh, không còn thích hợp với bối cảnh thời bình khi niềm lạc quan là điều cần thiết trong giai đoạn tái thiết.

Chính cũng vì thế mà tác giả Raymond Vincy đã đặt lại toàn bộ lời cho ca khúc Petit Papa Noël, lái hẳn nội dung bài hát này sang một hướng mới. Lời thứ nhì nói lên khung cảnh thanh bình của vạn vật đang ngủ yên dưới lớp tuyết trắng mùa đông, niềm vui quây quần bên nhau trong mọi nhà đang chờ đón Giáng Sinh, nỗi háo hức của các em nhỏ mơ ước tìm thấy dưới chân cây thông các gói quà, do ông già Noël đem từ trên trời xuống cõi trần ban tặng.

Ghi âm vào cuối năm 1946, Petit Papa Noël trở thành ca khúc cực kỳ ăn khách từ đầu năm 1947 trở đi. Giai điệu bài hát chỉ được chỉnh sửa ở phần điệp khúc sao cho hợp với quảng giọng tenor của Tino Rossi. Nhạc sĩ Henri Martinet thật ra đã gợi hứng sáng tác từ một đoạn của bài Tiebe Paiom của tác giả nhạc cổ điển người gốc Ukraina Dmitro Bbortnianski. Bản thân ca sĩ Tino Rossi cũng không nghĩ rằng bản nhạc này sẽ thật sự ăn khách, vì thế cho nên ông lược bỏ hẳn một đoạn (Et si tu dois t’arrêter, sur les toits du monde entier, tout ça avant demain matin, mets-toi vite en chemin), rút gọn bài hát từ ba câu xuống còn hai câu.

Petit Papa Noël trở thành bài hát ăn khách nhất trong suốt nửa thế kỷ sự nghiệp của Tino Rossi với hơn 30 triệu bản bán chạy. Nổi danh từ giữa những năm 1930 nhờ chất giọng mượt mà và tướng mạo chải chuốt như tài tử Rudolph Valentino, Tino Rossi có tài năng tỏa sáng nhờ vào sự phát triển của các đài phát thanh và sau đó là nhờ thành công của dòng phim ca nhạc trong làng nghệ thuật thứ bảy. Sinh trưởng ở đảo Corse, ông nổi danh nhờ chất giọng tenor, vầng hào quang sáng chói đến nổi làm lu mờ các nghệ sĩ cùng thời như André Claveau (nổi tiếng với Khúc Nhạc Muôn Đời Domino) hay là giọng ca baryton của Jean Sablon.

Trong vòng nhiều thập niên liền, tính từ năm 1947 trở đi, bản nhạc Petit Papa Noël được tái bản vào mỗi mùa Giáng Sinh và cứ mỗi lần lại ăn khách. Tính tới nay, Tino Rossi đã bán hơn 30 triệu đĩa đơn Petit Papa Noël. Bản nhạc này sau đó đã được nhiều thế hệ nghệ sĩ ghi âm lại, trong số các bài thành công nhất, có phiên bản của Dalida, Nana Mouskouri, Céline Dion, Roch Voisine hay gần đây hơn nữa của Josh Groban.

Còn trong tiếng Việt, bài hát Petit Papa Noël được đặt thêm lời thành bản nhạc Ông Noel Dễ Thương. Theo các nguồn ghi chép, có tới hai lời Việt khác nhau, lời thứ nhất của tác giả Hùng Dũng, lời thứ hai của tác giả Nguyễn Lê, từng được nhiều nghệ sĩ thể hiện như Đoan Trang, Phương Thảo, Tam ca Áo Trắng ……

Lúc sinh tiền, Tino Rossi đã ghi âm gần 1.200 bài hát, trong đó có những ca khúc rất ăn khách như Marinella, Méditerranée, Le Plus Beau Tango du Monde (Bài tango đẹp nhất trên đời) …… nhưng dường như không có bài nào có thể sánh bằng kỷ lục của bản nhạc Petit Papa Noël. Có lẽ cũng vì thế mà sinh thời danh ca tenor Tino Rossi thường hay nói đùa rằng, nếu bạn thử xếp lại với nhau 30 triệu đĩa hát Petit Papa Noël từng được bán trong nhiều thập niên qua, thì chồng đĩa nhựa này sẽ cao hơn gấp 10 lần ngọn tháp Eiffel.

__._,_.___

Posted by: Truc Chi

Bà Bầu Kim Chưởng đệ nhất anh hùng lưu diễn


Bà Bầu Kim Chưởng đệ nhất anh hùng lưu diễn

Soạn giả Nguyễn Phương
Inline images 1
Cuộc đời của nữ nghệ sĩ Kim Chưởng là tấm gương của người đam mê nghệ thuật sân khấu, học hỏi không ngừng. Sự thành tựu của nghệ sĩ Kim Chưởng gắn liền với sự phát triển của nghệ thuật sân khấu trong các thập niên 50, 60, 70.
Cô Kim Chưởng tên thật là Cao Thị Chưởng, sinh năm 1929, tại Cồn Ông, xã Trường Long Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, là con áp út trong gia đình có 7 anh chị em.
Khi cô Chưởng lên tám tuổi, ba của cô là ông Cả ở Cồn Ông, Ba Động qua đời. Vì cha cô bịnh lâu mới mất, gia sản tiêu tan lần hồi theo tiền thuốc thang chữa trị nên khi ba của cô mất, chôn cất xong là má cô rời bỏ làng quê, dẫn cô về thị xã Trà Vinh, sống bằng nghề mua gánh bán bưng.
Cô Kim Chưởng phải thức khuya dậy sớm giúp mẹ gói bánh tét, bánh ú đem ra chợ bán, gia đình bữa đói bữa no. Trong lúc đi bán bánh ở chợ, cô nghe máy hát hát những bài ca vọng cổ, cô học theo để ca nghêu ngao những khi buồn. Anh Hai của cô nghe cô ca, bèn nói với mẹ là giọng ca của con Chưởng nghe ngọt lắm, xin mẹ cho cô đi theo gánh hát, học hát. Mẹ cô Chưởng không muốn xa con, do dự mãi, đến khi thấy là bà không đủ sức nuôi dưỡng và giúp cho con có một nghề để sinh sống nên bà mới bằng lòng cho cô Chưởng theo đoàn hát.
Anh của cô Chưởng quen anh Tư Sum nên nhờ Tư Sum giới thiệu cho cô Chưởng theo gánh hát để học hát. Anh Tư Sum là anh chị bự, một võ sĩ có hạng được bầu gánh hát mướn gát cửa để ngăn ngừa bọn du đảng quấy phá. Vì địa vị của Tư Sum trong gánh hát thấp kém nên cô Chưởng được Tư Sum giới thiệu vào thì cũng chỉ được làm người ở đợ không lương, giúp việc vặt cho ông bà bầu và đào kép chánh.
Công việc của cô Chưởng làm trong gánh hát là buổi sáng phụ bếp nấu cơm hội cho nghệ sĩ, giặt đồ của ông bà bầu và buổi tối bán nước sâm của bà tẩm khậu nấu, mỗi tối được bà tẩm khậu cho vài đồng bạc tiêu xài. Cô Chưởng còn giặt đồ, đấm bóp cho cô Mỹ Giàu, đào chánh để được Mỹ Giàu dạy cho ca các bản cổ nhạc nhỏ. Hằng đêm, khi đoàn đang hát thì cô Chưởng ngồi một góc rạp xem và học nhẩm theo cách ca của cô đào chánh Mỹ Giàu. Khi màn bỏ xuống thì cô bưng nước sâm đi bán. Mỗi đêm học hát như vậy, cô Chưởng thuộc nhiều vai tuồng của cô Mỹ Giàu, thần tượng của cô.
Cô Chưởng theo các cô vũ nữ trong đoàn học múa, siêng năng học kỏi nhưng chưa được lên sân khấu lần nào. Nhưng rồi có dịp may, một cô vũ nữ bịnh bất ngờ, cô Chưởng được ông bầu cho lên múa thế. Cô Chưởng được người giúp đánh phấn thoa son, mặc y phục vũ nữ, cô múa rất đẹp và rất đúng như cô đã được ông thầy dạy vũ dạy trức tiếp. Đêm đó là đêm hạnh phúc nhứt của cô, vừa được múa hát trên sân khấu, vừa được hưởng lương của một người vũ nữ.
Năm sau, anh rể của cô gởi cho cô theo đoàn hát Tân Thiếu Niên của ông bầu Ba Đô. Cô làm em nuôi của đào chánh Ba Quyên và làm tỳ nữ trong các tuồng của thầy Ba Đô. Làm em nuôi giống như ở đợ, phải giặt quần áo, dọn dẹp tủ làm tuồng trước và sau khi hát cho chị nuôi, có nhiều đêm phải đấm bóp cho chị nuôi để được chị nuôi dạy cho hát vài ba câu hát. Cô Chưởng còn âm thầm tự học, ca nhái theo mỗi khi cô núp bên cánh gà xem cô Quyên hát. Nhiều tháng trôi qua, cô Chưởng thuộc nhiều vai tuồng hát của cô Ba Quyên, cô Chưởng được ông thầy đờn đờn cho cô ca thử, ông bầu Ba Đô nghe qua thích lắm.
Cô Chưởng tự học thêm bằng cách núp bên cánh gà xem các nghệ sĩ hát, cô chú ý các vai đào mùi, đào độc, cả vai mụ, cách hát ra sao, bộ đi, cách đứng, đưa tay múa như thế nào. Ban ngày cô ra sau rạp hát hay lựa chỗ vắng người, hát lại cho thuộc, tập múa lại cho quen các động tác đã học lóm được của các diễn viên trong đoàn.
Sáu tháng sau, trong dịp Tết cô đào chánh Ba Quyên bỏ đoàn bất ngờ, đi hát cho gánh khác. Đêm đó bán vé hát complet mà gần đến giờ mở màn ông bầu Ba Đô mới biết là cô đào chánh Ba Quyên đã chở rương tráp đi mất. Không thể nghỉ hát hoàn tiền cho khán giả vì ông đã dùng tiền bán vé hát đó để phát trước cho nghệ sĩ trong dịp Tết, ông phải kiếm người thế tuồng cô đào chánh. Các cô đào kia không người nào thuộc tuồng và không ai dám thế vai cô Ba Quyên. Khi ông hỏi đến cô Chưởng thì cô nói cô thuộc tuồng nhưng không biết hát thế cô Quyên được không? Ông Ba Đô nói: Mầy thuộc là được rồi, cứ ra hát giống như nó. Tao ở trong cánh gà, nhắc lớp hát cho mầy. Cứ bình tĩnh, tao làm mặt cho mày…(tức là đánh phấn tô son hóa trang cho nhân vật)
Đêm đó cô Chưởng thế tuồng cho cô đào chánh Ba Quyên, cô hát như một cô đào chánh chánh hiệu. Cả gánh hát đều mừng vì đêm đó mùng 1 Tết, đoàn khỏi phải trả vé và cô Chưởng hát thế vai mà được khán giả nhiệt liệt ngợi khen. Từ hôm đó cô Chưởng trở thành đào chánh, cô hát thế tất cả những vai của cô Quyên, hát hay hơn, ca hay hơn cô đào chánh cũ. Năm đó cô Chưởng mới được 13 tuổi, là đào chánh trẻ nhứt, đẹp nhứt, ca hay nhứt. ông thầy Ba Đô đặt nghệ danh cho cô là Kim Chưởng. Ông Ba Đô nói: Theo chữ nho Chưởng là trồng, Kim là vàng, Kim Chưởng là trồng vàng. Ông Ba Đô dạy thêm cho cô Kim Chưởng về nghệ thuật diễn xuất và ca cổ nhạc: ba Nam sáu Bắc. Nghề nghiệp Kim Chưởng ngày càng vững vàng, cho đến năm 1943, ông Ba Đô giải tán gánh hát Tân Thiếu Niên, Kim Chưởng được đoàn Văn Hí Ban mời cộng tác.
Cô Kim Chưởng còn cộng tác với đoàn hát Tân Xuân của bầu Tư Hélène (bà ngoại của nghệ sĩ Thanh Hằng, Thanh Ngân), đoàn hát Tân Tiến của cô Giáo Lựu, đoàn Tương Lai của Bầu Sinh và đoàn Bầu Bòn (năm 1948).
Cô Kim Chưởng được ông Bầu Bòn chỉ dạy thêm về diễn xuất. Năm 1949, cô Kim Chưởng kết hôn với anh Hai Thâu (tên thật là Nguyễn văn Sen) con trai của ông Bầu Bòn. Vợ chồng cô Kim Chưởng chung sống 50 năm, có được 3 trai, hai gái. Ba con trai của cô hiện định cư tại Đức và Mỹ, hai cô con gái là giáo sư Đại Học Anh Văn tại Saigon. Chồng của cô Kim Chưởng mất năm 1999 tại Saigon.
Thời gian hát cho gánh Bầu Bòn, ngoài việc được học thêm về diễn xuất, cô Kim Chưởng giúp cho cha chồng trong việc chăm sóc sân khấu (mà sau này người ta gọi với danh từ Đài Trưởng). Cô cũng học cách quản lý gánh hát từ việc tổ chức phòng bán vé hát đến việc quảng cáo, chọn bãi bến mới cho đoàn diễn, cô biết những việc làm của người quản lý của gánh hát. Điều này giúp cho cô rất nhiều khi cô là bầu gánh hát liên tục trong 20 năm (từ năm 1955 đến năm 1975).
Cô Kim Chưởng cộng tác với đoàn hát Phụng Hảo năm 1951 và năm 1953 cô hát cho đoàn Thanh Minh Bầu Nghĩa, cùng đứng chung sân khấu với danh ca Út Trà Ôn, Năm Nghĩa, Phước Trọng, các nữ danh ca Kim Anh, Thúy Nga.
Năm 1955, cô Kim Chưởng cùng với các nghệ sĩ Út Trà Ôn, Thanh Tao, Thúy Nga, Phước Trọng rời đoàn Thanh Minh, họ chung vốn thành lập đoàn Kim Thanh – Út Trà Ôn.
Đoàn hát Kim Thanh – Út Trà Ôn chỉ trong vòng 6 tháng là thu đủ vốn, trả hết nợ nầng, hai năm sau (1957) dứt hợp đồng, bốn nghệ sĩ chủ bầu gánh Kim Thanh – Út Trà Ôn tách ra lập thành bốn đoàn hát. Út Trà Ôn hợp tác với kép độc Hoàng Giang lập thành gánh hát Thống Nhứt – Út Trà Ôn. Kim Chưởng kết hợp với danh ca Thanh Hương lập gánh hát Kim Chưởng – Thanh Hương. Thúy Nga – Phước Trọng lập gánh hát Thúy Nga và Thanh Tao lập gánh hát Thanh Tao.
Nghệ sĩ Kim Chưởng có giọng ca trong trẻo, khoẻ khoắn, có lối diễn xuất sống động, nóng sân khấu do ảnh hưởng của lối hát bội pha cải lương mà cô được cha chồng là ông Bầu Bòn truyền dạy. Nữ nghệ sĩ Kim Chưởng đem áp dụng kinh nghiệm bản thân ngay khi mới được làm bầu gánh hát. Cô nói: Khán giả đi xem hát là muốn giải trí. Họ thích nghe ca cổ nhạc, thích xem nghệ sĩ múa, hát, mặc trang phục đẹp, cốt chuyện tuồng thì đủ hỉ, nộ, ái, ố… trung thắng nịnh, ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ, tình yêu của nhân vật chánh thì lúc đầu gặp trắc trở nhưng kết cuộc thì đoàn tụ, hạnh phúc. Nếu dang dở thì nhân vật nữ đi tu, nhân vật nam thất tình thì say rượu liên miên…Có nhiều vở tuồng văn chương, thơ nhạc rất hay, rất trữ tình. Thế nhưng tác giả dường như mê mải làm văn mà quên mất là mình đang viết tuồng cải lương. Tuồng cải lương đâu có giống như tiểu thuyết và khác xa với thoại kịch…Nếu không chú trọng đến phần diễn xuất cá nhân của từng nhân vật (tức là từng diễn viên) cũng như những mảng miếng mà sân khấu cải lương cần phải có thì không thể nào lôi cuốn được khán giả suốt hai tiếng đồng hồ của một đêm hát cải lương.
Nghệ sĩ Kim Chưởng còn cho là khán giả luôn thích xem tuồng mới, họ là lớp người bình dân, ở các thành phố nhỏ xa Saigon thì họ thích cải lương hơn người dân ở tại thành phố lớn. Do đó đoàn Kim Chưởng thường lưu diễn ở các tỉnh Hậu Giang, Tiền Giang, ở miền Trung và có nhiều khi vô hát ở các huyện xa xôi. Báo chí kịch trường tặng cho đoàn Kim Chưởng mỹ hiệu là Anh Hùng Lưu Diễn.
Soạn giả cộng tác thường trực của đoàn hát Kim Chưởn có Thu An, Hoài Linh, Phong Anh, Thanh Cao, Quy Sắc.
Nghệ sĩ đoàn Kim Chưởng có: Út Bạch Lan, Thành Được, Ngọc Hương, Ngọc Lan, Phương Quang, Ngọc Giàu, Trường Xuân, Diệp Lang, Trương Ánh Loan, Ánh Hồng, Phượng Liên, Thanh Nguyệt, Đức Lợi, Dũng Thanh Lâm, Thanh Hải, Quang Nhiều,… Trong số nghệ sĩ này có 6 nghệ sĩ được sự đào luyện của nữ nghệ sĩ Kim Chưởng mà nhận được huy chương vàng diễn viên xuất sắc giải Thanh Tâm: Ngọc Giàu, Diệp Lang, Thanh Nguyệt, Trương Ánh Loan, Ánh Hồng, Phượng Liên.
Tuồng hát trên sân khấu Kim Chưởng: Người Anh Khác Mẹ, Chưa Tắt Lửa Lòng, Lá Đào Rơi, Con Gái Nữ Thần, Oan Hồn Trên Tháp Đá, Tiếng Hát Đề Bá Lạc, Trăng Nửa Đêm, Hai Chiều Ly Biệt, Áo Trắng Nàng Mộng Trinh, Lá Huyết Thư, Người Gọi Đò Bên Sông, Quỷ Bão, Thần Điêu Đại Hiệp Song Long Thần Chưởng, Nước Mắt Kẻ Sang Tần, Kiếm Mộng Phù Tang, Nhặt Cánh Mai Vàng, Thuyền Ra Cửa Biển, Nửa Bản Tình Ca, Mùa Trăng Nhiều Nước Mắt, Tỉnh Mộng, Trăng Nước Lam Giang, Người Đi Chẳng Hẹn Về, Mặt Trời Đêm, Người Đẹp Kinh Bắc, Bên Đồi Trăng Cũ, Theo Chân Người Đao Phủ Thủ, Ảo Ảnh Châu Bích Lệ, Cô Gái Sông Đà…
Khi hỏi sau năm 1975 tại sao cô không lập gánh hát mặc dù tài chánh cô không thiếu, không cần đi vay mượn ai? Cô Kim Chưởng cho biết là năm 1976, cô lập gánh hát Hoa Lan Kim Chưởng nhưng khi gánh hát hoạt động được đều đặn, hát có doanh thu thì cô được lịnh “Tập Thể Hóa” đoàn hát. Cô giao gánh hát cho Sở Văn Hóa tỉnh Cần Thơ, họ đổi thành đoàn cải lương Cần Thơ, quyền làm chủ là Sở VH mà đại diện là cán bộ của Sở đưa xuống với các nghệ sĩ được bầu vô Ban Quản Trị. Bà lui về sống với các con.
Nhiều nghệ sĩ lão thành từng góp công xây dựng nền nghệ thuật sân khấu cải lương lần lượt qua đời sau tháng tư năm 1975. Trong số đó có các nam nghệ sĩ Năm Châu, Ba Vân, Năm Nở, Sáu Thoàng, Ba Thâu, Hai Tiền, Thanh Tao, Bảy Cao, Mai Lan Phương Ngọc Chiếu, các nữ nghệ sĩ Năm Đồ, Hai Nữ, Kim Thoa, Kim Cúc, Kim Lan, Sáu Ngọc Sương, Sáu Nết, Bảy Nam, Phùng Há…
Mỗi lần làm lễ an táng, khi đọc điếu văn, nhà cầm quyền và các cán bộ có chức có quyền trong lãnh vực nghệ thuật sân khấu đều nói là họ rất tiếc không có thu hình hoặc ghi chép lại được kinh nghiệm sáng tác hay ca diễn của các nghệ sĩ tài danh đó để truyền dạy lại cho các nghệ sĩ kế thừa…
Nói là nói vậy để cho các nghệ sĩ và mọi người tưởng là họ quý trọng tài năng sân khấu của dân tộc nhưng thật ra là từng bước họ xóa dần những thành quả nghệ thuật của các tài năng đó.
Khi nghệ sĩ Năm Châu còn sống, các tác phẩm của ông không được sử dụng, ông phải chuyển thể các kịch bản miền Bắc, hát trên sân khấu đoàn cải lương Saigòn 1 để có thu nhập sống qua ngày như các vở tuồng Nghêu Sò Óc Hến, Bình Tây Đại Nguyên Soái… Sáng tác mới của ông không được Hội đồng kiểm duyệt cho phép và người ta cũng không dùng ông làm giáo sư kịch nghệ như trong thời trước năm 1975.
Nghệ sĩ Bảy Cao mất, người ta đọc điếu văn, nói là tiếc chưa khai thác được kinh nghiệm của Bảy Cao trong việc phối hợp nghệ thuật sân khấu và điện ảnh, chưa tổng kết được kinh nghiệm và xảo thuật của đoàn hát Hoa Sen khi đoàn này diễn tuồng xã hội chiến tranh. Nói là vậy nhưng họ không thu dụng nghệ sĩ Bảy Cao ở các đoàn hát thành phố mà để cho ông trôi dạt kiếm sống theo các đoàn hát nhỏ ở tỉnh. Nữ nghệ sĩ Kim Luông, vợ của nghệ sĩ Bảy Cao thì cho theo đoàn cải lương Tiếng Ca Sông Cữu để làm bà Từ, đốt nhang và trông coi bàn thờ Tổ. Khi đoàn hát ở rạp nào đó thì nữ nghệ sĩ Kim Luông ngồi gác cửa sau.
Nữ nghệ sĩ Kim Lan, một thời là đào chánh đoàn hát Việt Kịch Năm Châu, sau năm 1975, nghệ sĩ Kim Lan cũng làm bà Từ và gác cửa sau của đoàn cải lương Saigon 3…
Nếu kể ra thêm thì còn nhiều nghệ sĩ tiền phong đã mất mà những tài năng và kinh nghiệm của họ không lưu lại được gì cho các nghệ sĩ các thế hệ sau. Người ta vẫn nói là rất tiếc nhưng ngay khi các nghệ sĩ tài danh đó còn sống, còn sức khỏe và còn hoạt động nghệ thuật được thì người ta không làm gì hoặc là nghĩ đến việc ghi lại hình ảnh, âm thanh và kinh nghiệm của những nghệ sĩ tài danh đó.
Tại sao? Có một câu trả lời đơn giản và ai nghe cũng biết là đúng! Tại vì họ không phải là đảng viên cộng sản! Họ là nghệ sĩ, thuộc về thành phần tiều tư sản, là những người có tự do tư tưởng, không chịu lệ thuộc theo định hướng chính trị của đảng Cộng Sản độc tài toàn trị.
Đó là sự thật mà họ không nói đến và mọi người đều hiểu nhưng không ai thốt ra bằng lời: Đó là nghệ thuật sân khấu, dù là hát bội, hát chèo, cải lương hay kịch, đối với nhà nước hiện nay phải được dùng như là công cụ tuyên truyền của đảng và nhà nước Cộng Sản. Ngành nghệ thuật nào tuyên truyền được đường lối và chủ trương của đảng tức là hoạt động đúng định hướng thì ngành nghệ thuật đó tồn tại và được chánh phủ quan tâm phát triển. Ngành nghệ thuật nào chỉ là làm nghệ thuật đơn thuần thì sẽ chết dần mòn trong cái “cơ chế” hiện nay thôi.
Buồn cho con nhện giăng tơ!
Cải Lương ngày cũ, bây giờ ra tro!
Soạn giả Nguyễn Phương
Tháng 12/2017


__._,_.___

Posted by: Truc Chi

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List